Những bất cập liên quan tới chủ trương đầu tư dự án PPP, nguồn lực tài chính và năng lực cán bộ thực hiện dự án PPP… sẽ được tháo gỡ khi Nghị định 63 bước vào giai đoạn triển khai.
Theo ông Vũ Đại Thắng, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nghị định 63 "ra đời" trong bối cảnh việc thực hiện dự án PPP theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức PPP đã bộc lộ một số hạn chế khiến các dự án PPP được triển khai trong thời gian qua không hiệu quả và các dự án PPP chưa hấp dẫn nhà đầu tư tư nhân.
Vì vậy, Nghị định 63 được thiết kế với nhiều nội dung sửa đổi khá quan trọng và cụ thể về thẩm quyền và trình tự thủ tục trong việc quyết định các dự án PPP; mở rộng các nguồn vốn nhà nước tham gia dự án PPP; bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với dự án PPP, góp phần cải cách thủ tục hành chính; và đẩy mạnh việc phân cấp cho các đơn vị sự nghiệp công lập…
"Những thay đổi này được kỳ vọng sẽ tạo niềm tin cho cộng đồng các nhà đầu tư về một môi trường đầu tư công khai, minh bạch, các dự án khi đưa ra đấu thầu được chuẩn bị kỹ lưỡng, bài bản", ông Thắng nhấn mạnh.
Cụ thể, theo ông Trần Việt Dũng, Chánh văn phòng Cục Quản lý đấu thầu thì Nghị định 63/2018 quy định rõ hơn về thẩm quyền, trình tự, thủ tục phê duyệt chủ trương đầu tư đối với dự án PPP (bao gồm cả trường hợp dự án có sử dụng hoặc không sử dụng vốn đầu tư công) trên cơ sở đảm bảo phù hợp với quy định của pháp luật về đầu tư công.
Trong đó, quy định rõ hơn trình tự, thủ tục triển khai dự án PPP sử dụng công nghệ cao với mục đích tạo sự linh hoạt trong quá trình triển khai và giảm thời gian, chi phí trong giai đoạn lập dự án.
Nghị định cũng mở rộng nguồn vốn được sử dụng làm phần Nhà nước tham gia thực hiện dự án, ngoài vốn ngân sách nhà nước, vốn trái phiếu chính phủ, vốn trái phiếu chính quyền địa phương, vốn ODA và vốn vay ưu đãi của nhà tài trợ nước ngoài; sẽ có thể sử dụng nhiều nguồn lực khác để tham gia, hỗ trợ nhà đầu tư trong dự án PPP, như giá trị quyền sử dụng đất, tài sản công, tài sản kết cấu hạ tầng, quyền kinh doanh khai thác công trình, dịch vụ...
Vốn thanh toán cho nhà đầu tư đối với các dự án PPP cũng quy định mở hơn nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các bộ, ngành và UBND cấp tỉnh linh hoạt trong việc sử dụng cũng như thuận lợi hơn cho nhà đầu tư tham gia dự án PPP.
Đặc biệt, theo Thứ trưởng Thắng, Nghị định 63 đã rút ngắn giai đoạn chuẩn bị đầu tư với nhiều thủ tục được đơn giản hóa trong đó có việc bãi bỏ thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư.
Đồng thời, để khắc phục lỗ hổng tạo tham nhũng, thất thoát trong dự án PPP do thiếu thông tin minh bạch, Nghị định 63 đã bổ sung điều khoản về công khai thông tin hợp đồng dự án, gồm thời hạn và nội dung thông tin được công khai.
Ngoài ra, Nghị định 63 cũng quy định rất rõ tỷ lệ nguồn vốn chủ sở hữu, vốn huy động của nhà đầu tư thực hiện dự án theo hình thức PPP trong đó, nhà đầu tư chịu trách nhiệm góp vốn chủ sở hữu và huy động các nguồn vốn hợp pháp khác để thực hiện dự án theo hợp đồng dự án đã ký kết.
Cụ thể, đối với dự án có tổng vốn đầu tư đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư không được thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư.
Ðối với dự án có tổng vốn đầu tư hơn 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư được xác định theo nguyên tắc: Ðối với phần vốn đến 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 20%; đối với phần vốn từ hơn 1.500 tỷ đồng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu không được thấp hơn 10%. Phần Nhà nước tham gia trong dự án PPP không tính vào tổng vốn đầu tư để xác định tỷ lệ vốn chủ sở hữu...
"Quy định này được đưa ra nhằm sàng lọc năng lực tài chính của nhà đầu tư tham gia dự án PPP, tránh trường hợp dự án bị kéo dài do nhà đầu tư không có khả năng huy động nguồn lực tài chính cho dự án khiến dự án chậm triển khai, kéo dài như trong thời gian qua", ông Dũng nhấn mạnh.
11 điểm mới tại Nghị định 63/2018/NĐ-CP
1. Bổ sung lĩnh vực đầu tư
2. Quy định bổ sung trình tự phù hợp hơn với dự án công nghệ cao
3. Bổ sung nguồn vốn Nhà nước tham gia trong dự án PPP
4. Bổ sung quy trình quyết định chủ trương đầu tư
5. Bãi bỏ thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư
6. Quy định chặt chẽ hơn đối với dự án BT
7. Bổ sung việc thực hiện dự án PPP của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp
8. Yêu cầu công khai thông tin hợp đồng dự án PPP
9. Tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư
10. Thời điểm chuyển nhượng hợp đồng dự án
11. Vấn đề khác (lấy ý kiến cộng đồng về tác động dự án, dự án nhóm C không phải thực hiện quyết định chủ trương đầu tư, hình thành nguồn vốn hỗ trợ chuẩn bị đầu tư, áp dụng hợp đồng hỗn hợp)