Trong một vài tuần gần đây, đồng won Hàn Quốc, đô la Đài Loan và đô la Singapore là những đồng tiền dễ biến động nhất tại các thị trường mới nổi so với USD.
Sức mạnh của USD là nguyên nhân chính đằng sau sự yếu thế của các thị trường mới nổi kể từ đầu năm đến nay, ví dụ như Argentina, Thổ Nhĩ Kỳ hay Nam Phi – những nước có thâm hụt tài khoản vãng lai khá lớn. Ngược lại, các quốc gia mới nổi có thặng dư cán cân vãng lai khá an toàn.
Nhà kinh tế học Patrick Zweifel tại Pictet nhận định tiền tệ châu Á rơi vào tình trạng căng thẳng không phải bởi hiệu ứng lan truyền trong các thị trường mới nổi, thay vào đó, nguyên nhân chính là do tình trạng căng thẳng thương mại và ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc cũng như đồng nhân dân tệ đối với sức khỏe của các nền kinh tế này.
Các đồng tiền mới nổi đã giảm mạnh.
Với các nhà đầu tư, động thái đi xuống mới nhất của đồng nhân dân tệ cho thấy các nguy cơ đối với thị trường và nền kinh tế tăng cao. Cuối tuần trước, tổng thống Mỹ Donald Trump tuyên bố ông đã sẵn sàng áp dụng thuế quan với lượng hàng xuất nhập khẩu trị giá 500 tỉ USD từ Trung Quốc, đồng thời, ông cũng lên tiếng chỉ trích hiện trạng USD tăng giá và ý định duy trì chính sách thắt chặt lãi suất của Cục dữ trữ liên bang.
Các đối tác thương mại trong khu vực của Trung Quốc sẽ tổn thất lớn nếu căng thẳng thương mại leo thang. Một trong những đối tác này là Úc. Biến động tỉ giá tiền tệ của Úc so với USD hiện nay dường như phụ thuộc khá nhiều vào động thái của đồng nhân dân tệ.
Hay nói cách khác, sự ổn định của tiền tệ của nhiều quốc gia châu Á phụ thuộc vào các nhà hoạch định chính sách Trung Quốc tại NHTW Trung Quốc (PBOC).
James Kwok, phó trưởng phụ trách mảng ngoại hối tại công ty quản lý tài sản châu Âu Amundi, cho biết: "Với vai trò bình ổn thị trường tiền tệ châu Á nhờ nền kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực, đồng nhân dân tệ của Trung Quốc đang định hướng xu hướng phát triển của tiền tệ châu Á."
Các nhà đầu tư hiện đang chú tâm vào việc PBOC sẽ để đồng nhân dân tệ hạ giá đến mức nào. So với USD, nhân dân tệ đã giảm hơn 5% kể từ đầu tháng sáu.
Mức thấp nhất trong năm của đồng nhân dân tệ là 6,8 tệ/USD. Tỉ giá này phản ánh tình trạng tăng trưởng chậm và tín dụng thắt chặt tại Trung Quốc hiện nay. Đổi lại, giá các kim loại công nghiệp như đồng, chì, niken và kẽm giảm mạnh, gây tổn thất cho các nhà khai thác toàn cầu.
Dù cơ quan điều tiết ngoại hối Trung Quốc tuyên bố sẽ tiến hành các biện pháp đảm bảo ổn định tiền tệ, nhưng giá nhân dân tệ vẫn biến động.
Theo Kit Juckes tại Société Générale, "những lo ngại về việc chính quyền [Trung Quốc] cho phép tiền tệ tiếp tục hạ giá sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ khu vực tiền tệ châu Á."
Đồng nhân dân tệ hạ giá gây ra nhiều thiệt hại đối với nền kinh tế châu Á. Theo Bank of America Merrill Lynch, đồng nhân dân tệ hạ giá làm suy giảm sức mua của các nhà nhập khẩu Trung Quốc, và có thể sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của khu vực từ nay đến cuối năm 2018.
Danh sách những đồng tiền diễn biến tương tự hoặc tương quan với diễn biến hạ giá của đồng nhân dân tệ so với USD ngày càng tăng lên. Theo Gaurav Saroliya, nhà chiến lược gia vĩ mô tại Oxford Economics, những diễn biến tiền tệ mới đây cho thấy đồng won của Hàn Quốc cũng như đô la Đài Loan và Singapore đang gắn chặt với nhân dân tệ.
Ông cho biết: "Những liên kết vĩ mô vô cùng quan trọng. Chúng đan xen với vận mệnh của Trung Quốc."
Theo Juckes, đô la Úc, New Zealand, đồng ringgit của Malaysia, rupiah của Indonesia và yên Nhật là những cái tên mới trong danh sách trên.
Với những nước kể trên, Juckes cho biết: "Trung Quốc đóng một vai trò quan trọng trong thị trường của họ." Về phía Nhật Bản, theo Saroliya, quốc gia này sẽ tổn thất lớn nếu nền thương mại toàn cầu đi xuống bởi Nhật Bản liên kết chặt chẽ với thương mại toàn cầu hơn Mỹ.
Câu hỏi đặt ra cho các ngân hàng trung ương châu Á là cần làm gì trong thời điểm đồng nhân dân tệ tiếp tục hạ giá. Một yếu tố quan trọng cần cân nhắc là nhân dân tệ hạ giá ra sao so với tiền tệ của các quốc gia châu Á, thay vì so với USD.
Hệ thống Giao dịch Ngoại hối Trung Quốc (CFETS) định giá nhân dân tệ dựa trên một giỏ giá trị tiền tệ, trong đó, tiền tệ châu Á chiếm 41%. Kể từ đầu tháng sáu, chỉ số CFETS đã giảm 3%. Chỉ số này từng tăng hơn 5% trong vòng một năm tính đến tháng sáu năm nay. Tuy nhiên, các ngân hàng trung ương sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi đồng nhân dân tệ giảm giá so với tiền tệ của quốc gia họ.
Stephen Gallo, chiến lược gia tiền tệ tại Bank of Montreal, cho biết: "Nếu các nhà xuất khẩu của bạn đang cạnh tranh cùng Trung Quốc, điều này sẽ khiến họ thiệt hại."
Một trong số các giải pháp cho các ngân hàng trung ương châu Á là theo chân PBoC, cụ thể là quay lại thực hiện các biện pháp tiền tệ nới lỏng nhằm giảm tác động của căng thẳng thương mại hoặc can thiệp vào thị trường ngoại hối.
Theo Gallo, cho tới khi căng thẳng thương mại hạ nhiệt hoặc được giải quyết, "không có nhiều cơ hội [cho các ngân hàng trung ương châu Á] tăng lãi suất trước nửa đầu năm 2019". Và khi Mỹ quyết định tiếp tục theo đuổi chủ nghĩa bảo hộ, tất cả tuỳ thuộc vào lời hồi đáp từ Trung Quốc.