TS. Cấn Văn Lực và Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV vừa công bố báo cáo phân tích liên quan đến Hiệp định Thương mại tư do (EVFTA) và những cơ hội, thách thức mở ra với ngành tài chính - ngân hàng Việt Nam.
Ngày 30/6/2019, Hiệp định Thương mại tự do (EVFTA) giữa Việt Nam với EU đã chính thức được ký kết. Ngày 12/2/2020, tại phiên họp toàn thể ở Strasbourg (Pháp), Nghị viện Châu Âu đã bỏ phiếu ủng hộ EVFTA. Ngày 30/3/2020, Hội đồng Châu Âu đã quyết định phê chuẩn Hiệp định EVFTA. Sáng ngày 8/6/2020, với đa số phiếu tán thành, Quốc Hội Việt Nam đã biểu quyết thông qua EVFTA. Theo quy trình, Hiệp định EVFTA sẽ có hiệu lực sau 30 ngày kể từ khi hai bên hoàn thành các thủ tục thông báo cho nhau.
Như vậy, EVFTA có thể sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày 1/8/2020, sẽ mở ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành tài chính-ngân hàng Việt Nam nói riêng. Điều này càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh "bình thường mới" hậu Covid-19.
Đôi nét về quan hệ kinh tế Việt Nam – EU
Trong hai thập kỷ qua, quan hệ kinh tế Việt Nam - EU đã phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại Việt Nam – EU đã tăng từ 4,1 tỷ USD năm 2000 lên 56,45 tỷ USD năm 2019, gấp 13,7 lần; trong đó, xuất khẩu của Việt Nam vào EU tăng 14,8 lần (từ 2,8 tỷ USD lên 41,54 tỷ USD) và nhập khẩu tăng hơn 11,4 lần (1,3 tỷ USD lên 14,9 tỷ USD). Về quan hệ đầu tư, tính đến hết năm 2019, hoạt động đầu tư giữa EU và Việt Nam còn khá khiêm tốn cả về số lượng và quy mô dự án đăng ký. Việt Nam nhận đầu tư chủ yếu từ các nước Hà Lan, Anh, Pháp, trong khi đi đầu tư tập trung tại một số nước như Đức, Anh và Pháp. Về du lịch, từ cuối năm 2015, cùng với chính sách kích cầu, Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng nhanh từ thị trường EU. Số lượt khách tăng đều ở mức 5-10% mỗi năm, chủ yếu đến từ các nước như Anh, Pháp, Đức,…v.v. Trong ngành tài chính - ngân hàng, hiện đã sự tham gia của không ít nhà đầu tư EU, chủ yếu là các ngân hàng 100% vốn nước ngoài như Standard Chartered, HSBC; hoặc các chi nhánh ngân hàng nước ngoài như Deutsche Bank; và nhiều quỹ đầu tư từ EU…v.v
Với vị thế như vậy, EU là đối tác thương mại - đầu tư quan trọng hàng đầu của Việt Nam và EVFTA được kỳ vọng sẽ đẩy nhanh quá trình phục hồi nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành tài chính - ngân hàng nói riêng trong bối cảnh bình thường mới.
Đánh giá tác động EVFTA đến ngành tài chính-ngân hàng Việt Nam
Tác động trực tiếp: Các nội dung về mở cửa thị trường tài chính-ngân hàng trong EVFTA được nêu tập trung tại Phần lời văn của Chương 8, các Phụ lục 8B và 8C của Chương 8 và Biên bản ghi nhớ về góp vốn ngân hàng. Nhìn chung, các cam kết này tương tự như trong WTO và CPTPP, nhưng có 3 cam kết đáng chú ý.
Một là quy định "trong vòng 5 năm đầu sau khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam cam kết sẽ xem xét cho phép các tổ chức tín dụng (TCTD) EU mua đến 49% cổ phần của 2 NHTMCP Việt Nam (hiện nay tối đa là 30%), ngoại trừ 4 NHTMCP có sở hữu Nhà nước là BIDV, Vietinbank, Vietcombank và Agribank". Với thời gian thực thi không dài, cùng xu hướng thoái vốn của các đối tác nước ngoài (nhất là Châu Âu) gần đây, trong ngắn hạn, quy định này dự báo tác động không nhiều đến dòng vốn của EU vào thị trường ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, điều này cũng mở ra cơ hội cho các NHTMCP, đặc biệt là các ngân hàng đang "khát vốn chủ sở hữu", đáp ứng chuẩn Basel 2. Khi có sự tham gia của các đối tác chiến lược EU, các ngân hàng trong nước sẽ được tiếp cận bộ máy quản trị và công nghệ hiện đại cũng như các sản phẩm tài chính-ngân hàng hiện đại.
Hai là cam kết về "mở cửa thị trường với các dịch vụ tài chính mới" và "cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính EU chuyển thông tin ra/vào Việt Nam; cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính EU thành lập tại Việt Nam tiếp cận dịch vụ thanh toán, bù trừ, các phương thức tài trợ và tái cấp vốn có sẵn (được hiểu là các phương thức huy động vốn thông thường trên thị trường như phát hành trái phiếu, vay vốn từ các NHTM, vay tái cấp vốn từ Ngân hàng nhà nước,…v.v". Điều khoản này dự kiến có tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến lĩnh vực Fintech và tiền di động (Mobile money) – dịch vụ tài chính mới đang được quản lý bằng các văn bản pháp luật hiện có của Việt Nam. Đây là thách thức không nhỏ đến thị trường tài chính trong nước cũng như triển vọng các sản phẩm tài chính số trong tương lai; nhất là các mảng thanh toán, ngân hàng bán lẻ. Tuy nhiên, đây cũng là động lực để các Fintech và ngân hàng Việt Nam đổi mới, phát triển nhanh chóng hơn; đẩy nhanh tiến trình tài chính số và thanh toán không dùng tiền mặt trong bối cảnh hậu dịch Covid-19.
Ba là cam kết mở cửa đối với dịch vụ bảo hiểm; theo đó, Việt Nam gần như giữ nguyên mức cam kết tại WTO và chỉ mở cửa thị trường thêm với dịch vụ môi giới bảo hiểm và tái bảo hiểm. Theo cam kết này, Việt Nam cho phép các nhà cung cấp dịch vụ bảo hiểm EU được cung cấp qua biên giới cho khách hàng Việt Nam không hạn chế các dịch vụ tái bảo hiểm, nhượng tái bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, môi giới tái bảo hiểm và các dịch vụ phụ trợ bảo hiểm. Như vậy, các cam kết trong EVFTA sẽ tác động không nhiều đến hoạt động bản hiểm gốc (bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ) tại thị trường trong nước. Tuy nhiên, với xuất xứ lâu đời và phát triển tại các nước Châu Âu, việc mở cửa hoạt động tái bảo hiểm đối với EU sẽ góp phần thúc đẩy tính cạnh tranh và sự phát triển của thị trường này tại Việt Nam.
Tác động gián tiếp: EVFTA còn có tác động gián tiếp đối với nền kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng, ở 3 khía cạnh chính như sau.
Thứ nhất, thực thi Hiệp định góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm; từ đó tác động tích cực đến ngành tài chính - ngân hàng. Theo HSBC (tháng 6/2020), Hiệp định có thể làm tăng thêm 0,1 điểm % cho tăng trưởng GDP của Việt Nam mỗi năm. Báo cáo của World Bank công bố tháng 5/2020 ước tính, EVFTA có thể giúp GDP Việt Nam tăng thêm 2,4% và xuất khẩu tăng 12% vào năm 2030. Những tác động này được dự báo sẽ giúp trung hòa đáng kể tác động tiêu cực từ dịch Covid-19 đối với nền kinh tế Việt Nam và lĩnh vực tài chính – ngân hàng, nhất là làm tăng nhu cầu sử dụng dịch vụ tài chính của doanh nghiệp và người dân, đặc biệt nhu cầu đối với hoạt động tín dụng, thanh toán, tài trợ thương mại, bảo lãnh, fintech, bảo hiểm nhân thọ và phi nhân thọ…v.v. Tuy vậy, những lợi ích từ EVFTA khó có thể tận dụng được nhiều ngay trong năm 2020 khi dịch bệnh vẫn chưa được kiểm soát hoàn toàn tại các nước Châu Âu; nguy cơ suy thoái kinh tế do đại dịch sẽ ảnh hưởng tiêu cực, làm giảm nhu cầu tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ của thị trường EU đối với Việt Nam.
Thứ hai, giúp cải thiện dòng vốn vào thị trường chứng khoán, các các quỹ đầu tư, và hỗ trợ ổn định tỷ giá. EVFTA được kỳ vọng không chỉ thúc đẩy thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam mà cả hoạt động đầu tư gián tiếp và mở rộng cơ hội hợp tác giữa doanh nghiệp 2 bên. Nhờ đó, thị trường chứng khoán Việt Nam sẽ trở nên hấp dẫn và thu hút đầu tư, đặc biệt là dòng vốn gián tiếp từ các nhà đầu tư EU thông qua các quỹ đầu tư. Ngoài ra, hoạt động xuất khẩu, đầu tư mở rộng sẽ giúp gia tăng lượng ngoại tệ, cải thiện dự trữ ngoại hối, ổn định tâm lý thị trường và tỷ giá hối đoái.
Thứ ba, thúc đẩy kiến tạo môi trường đầu tư - kinh doanh thuận lợi hơn thông qua cải cách thể chế và hoàn thiện khung khổ pháp lý. Việc thực thi các cam kết tại EVFTA sẽ thúc đẩy cạnh tranh, hợp tác và đẩy mạnh phát triển dịch vụ, trong đó có lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Đồng thời, các quy tắc, luật định sẽ ngày càng được chuẩn hóa, minh bạch, hướng đến nền kinh tế minh bạch hơn và thị trường tài chính phát triển cân bằng hơn.
Đánh giá tổng thể, EVFTA là cơ hội góp phần vực dậy nền kinh tế nhanh hơn thời kỳ hậu Covid-19. EVFTA cũng là động lực để phát triển dịch vụ tài chính hiện đại tại Việt Nam, đẩy nhanh quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng. Tuy nhiên, Hiệp định cũng sẽ đặt ra cả thách thức đối với ngành tài chính-ngân hàng Việt Nam.
Thứ nhất, việc mở cửa thị trường cũng tạo ra áp lực cạnh tranh ngày càng lớn từ các tổ chức tài chính EU, nhất là các sản phẩm có hàm lượng công nghệ, số hóa lớn. Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt, thanh toán di động, tiền kỹ thuật số,…v.v. vốn đã phát triển mạnh tại Châu Âu có thể trở thành xu hướng, phổ biến tại thị trường Việt Nam. Yêu cầu của khách hàng đối với dịch vụ tài chính ngày càng cao, không dừng lại ở giá mà cả sự đa dạng và chất lượng dịch vụ. Điều này đòi hỏi các tổ chức tài chính, các ngân hàng Việt Nam phải nhanh chóng chuyển mình, đổi mới, sáng tạo để thích ứng với biến đổi của thị trường.
Thứ hai, các cam kết mới trong EVFTA cho phép các nhà cung cấp dịch vụ tài chính EU được chuyển dữ liệu hoặc tiếp cận đầy đủ với hệ thống thanh toán, chuyển mạch tài chính Việt Nam; các yêu cầu ứng dụng công nghệ cao trong dịch vụ tài chính cũng đặt ra nhiều thách thức trong bảo mật thông tin, quản trị an ninh mạng và an toàn dữ liệu.
Thứ ba, bên cạnh những lợi ích mang lại, việc thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài cũng tiềm ẩn nhiều thách thức đối với ngành tài chính - ngân hàng trong nước. Đó là nguy cơ bị thôn tính, sáp nhập, nếu quản trị không tốt, không có biện pháp phòng ngừa; rủi ro pháp lý do kiện tụng, tranh chấp tăng lên (nhất là khi hiệp định bảo hộ đầu tư EVIPA chính thức có hiệu lực, sẽ cho phép nhà đầu tư khởi kiện Chính phủ); luồng vốn vào-ra lớn khiến thị trường vốn trong nước có thể biến động mạnh khi có hành vi rút vốn nhanh.
Thứ tư, không thể phủ nhận những lợi ích tiềm năng mà EVFTA có thể mang lại. Tuy nhiên, nếu các Bộ, Ngành, Địa phương và Doanh nghiệp chưa nắm bắt, nhận thức được đầy đủ về các điều khoản cam kết, quyền lợi, trách nhiệm, cơ hội và thách thức từ Hiệp định thì rất khó có thể tận dụng được nhiều, thậm chí bỏ qua nhiều cơ hội, nhất là khi một số điều kiện, tiêu chuẩn hiện chưa được Việt Nam quan tâm đúng mức nhưng lại hết sức quan trọng với thị trường EU như vấn đề về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn lao động, bảo vệ môi trường,..v.v.
Một số giải pháp
Trên cơ sở dự báo những cơ hội – thách thức EVFTA mang lại, nhóm nghiên cứu đề xuất 9 giải pháp đối với ngành tài chính-ngân hàng.
Đối với Chính Phủ và các Bộ, Ngành, Địa phương:
Thứ nhất, để chuẩn bị cho việc thực thi Hiệp định, Chính phủ đã có chủ trương ban hành kế hoạch thực hiện sau khi Quốc hội phê chuẩn. Như vậy, để các Bộ, Ngành, Địa phương và Doanh nghiệp Việt Nam có căn cứ, lộ trình và định hướng thực thi EVFTA hiệu quả, nhất quán; Chính phủ nên sớm hoàn thiện và ban hành kế hoạch hành động này.
Thứ hai, Chính phủ, các Bộ, Ngành tiếp tục rà soát, hoàn thiện thể chế, văn bản pháp luật liên quan nhằm tạo môi trường thuận lợi để triển khai Hiệp định. Theo đó, (i) cần nhất quán, ddieuf chỉnh phù hợp các luật liên quan như Luật sở hữu trí tuệ, Luật doanh nghiệp, Luật kinh doanh chứng khoán - bảo hiểm, Luật lao động, Luật các TCTD nhằm tăng tính tự chủ, minh bạch của các tổ chức tài chính, bổ sung qui định hoạt động mới như ngân hàng đầu tư, banca-assurance phù hợp với cam kết hội nhập quốc tế; (ii) hoàn thiện luật định quản lý mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ (như cho vay ngang hàng, Fintech, tiền kỹ thuật số, xác thực điện tử E-KYC….) theo hướng tạo điều kiện song vẫn đảm bảo kiểm soát rủi ro; (iii) thành lập và ban hành các quy định hướng dẫn cho các thị trường chưa có/chưa phát triển tại Việt Nam nhưng đã rất phát triển trên thế giới và tại EU như thị trường mua bán nợ, chứng khoán hóa,…v.v.; (iv) rà soát, hoàn thiện khung pháp lý về M&A và đầu tư (như Luật cạnh tranh, Luật đầu tư,…v.v) để giảm thiểu rủi ro thâu tóm, rút vốn nhanh, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia.
Thứ ba, đẩy nhanh tiến trình cải cách và có chiến lược dài hạn về cải thiện mạnh mẽ, thực chất môi trường đầu tư kinh doanh, có lộ trình thực hiện chi tiết theo từng giai đoạn (thay vì thực hiện hàng năm như hiện nay), giảm mạnh chi phí không chính thức, đảm bảo công khai, minh bạch; tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính, đẩy mạnh Chương trình chuyển đổi số quốc gia...v.v. Đồng thời, chú trọng vận hành hiệu quả hoạt động của Ủy Ban quản lý cạnh tranh quốc gia, đảm bảo tính khách quan, chuyên nghiệp, độc lập và hiệu lực của cơ quan này trong vai trò thực thi Luật cạnh tranh.
Thứ tư, đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu thị trường tài chính – ngân hàng, lành mạnh hóa các tổ chức tài chính, đưa các chuẩn mực hoạt động (kế toán, quản trị doanh nghiệp, quản lý rủi ro…) hướng tới đạt chuẩn thông lệ quốc tế. Tăng cường thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro (thay vì hành chính như hiện nay); thực thi chế tài nghiêm minh đối với các vi phạm trên thị trường, tạo thuận lợi để phát triển thương mại, dịch vụ và hội nhập toàn cầu.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác thông tin, truyền thông, hướng dẫn nhằm nâng cao nhận thức, hiểu biết của các Bộ, Ngành, Địa phương và Doanh nghiệp (đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ và vừa) về các quy định, cam kết của Hiệp định, để từ đó có thể tận dụng tối đa cơ hội, bảo vệ lợi ích chính đáng của các đối tượng chịu tác động. Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức của Doanh nghiệp, cộng đồng về các vấn đề sở hữu trí tuệ, lao động và môi trường,…v.v. để có thể phát triển các sản phẩm phù hợp, thích ứng tốt với các điều kiện và tiêu chuẩn của EU.
Đối với các Tổ chức tài chính Việt Nam:
Thứ nhất, đẩy nhanh tiến trình tái cơ cấu hoạt động nhằm nâng cao tính ổn định, phát triển bền vững, tăng khả năng chống chịu trước các cú sốc từ bên ngoài; hoàn thiện và vận hành theo bộ khung quản trị công ty (theo chuẩn mực OECD hoặc Ngân hàng Thanh toán quốc tế - BIS); nghiên cứu, tạo nền tảng phát triển mô hình ngân hàng đầu tư – hoạt động có nhiều tiềm năng trong điều kiện hội nhập.
Thứ hai, tập trung phát triển hoạt động tài chính số, ngân hàng số, chú trọng xây dựng cơ sở dữ liệu; tìm hiểu, nắm bắt xu hướng thị trường, nghiên cứu các sản phẩm đã phổ biến tại thị trường EU song còn mới mẻ với Việt Nam (như tiền kỹ thuật số, thanh toán di động, hoạt động môi giới và tái bảo hiểm…). Đồng thời, các định chế tài chính Việt Nam cần sớm nâng cấp hệ thống công nghệ, xây dựng đội ngũ chuyên gia, đáp ứng yêu cầu bảo mật, an toàn thông tin, dữ liệu trong hoạt động, nhất là đối với các giao dịch xuyên biên giới, giao dịch số...v.v.
Thứ ba, rà soát, xây dựng chính sách riêng để thu hút các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực được dự báo sẽ có nhiều cơ hội từ EVFTA như dệt may, da giày, nông nghiệp, chế biến, chế tạo, dịch vụ du lịch… Nghiên cứu các sản phẩm theo chuỗi giá trị để gia tăng sự liên kết giữa các khách hàng với các tổ chức tài chính, là điều kiện vận hành hệ sinh thái. Đồng thời, rà soát, điều chỉnh hoạt động phù hợp trong thời gian tới, nhất là xu hướng "tài chính xanh – ngân hàng xanh". Đây là một mảng mà thị trường Châu Âu rất phát triển. Việt Nam cũng đã có chủ trương, khuyến khích ban đầu của Chính phủ và Ngân hàng nhà nước.
Thứ tư, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chú trọng đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo các tiêu chuẩn của khu vực và quốc tế, nhất là đội ngũ lãnh đạo, quản lý cấp cao, cấp trung. Đẩy mạnh nghiên cứu, khuyến khích áp dụng các giải pháp, đặc biệt là ứng dụng CNTT, cải tiến quy trình, tăng hiệu quả phối kết hợp nhằm nâng cao năng suất lao động và coi đây là năng lực cạnh tranh cốt lõi.
Gồm 12 nước có số liệu thống kê từ Tổng cục Du lịch (Bỉ, Hà Lan, Na Uy, Pháp, Phần Lan, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Tây Ban Nha, Anh, Ý, Đan Mạch, Đức); không bóc tách được đối với các nước còn lại do được tính chung vào chỉ tiêu "thị trường khác thuộc Châu Âu".