Ở Phố Wall, rất nhiều người có thể chia sẻ về câu chuyện bong bóng dot-com. Tuy nhiên, không nhiều người trong số họ thành lập 1 công ty quản lý tài sản tập trung vào lĩnh vực công nghệ chỉ khoảng 3 tháng trước khi sự kiện đó xảy ra.
Ryan Jacob đã ghi nhận thành tích đáng kinh ngạc khi sáng lập Jacob Internet Fund vào tháng 12/1999 khi ông 30 tuổi. Ông đã chèo lái công ty vượt qua thời điểm thị trường bùng nổ, sau đó chứng kiến quả bong bóng công nghệ vỡ tung và duy trì sự tồn tại của quỹ đến ngày hôm nay. Tất cả những yếu tố đó giúp ông đủ kinh nghiệm để đánh giá về đà tăng "nóng" của lĩnh vực công nghệ ở thời điểm hiện tại.
Chia sẻ với Bloomberg, Jacob cho hay: "Những người duy nhất nói rằng ‘mọi thứ giống như những năm 1990’ chính là những nhà quản lý quỹ phòng hộ thiếu hiểu biết và gây khó chịu. Cho rằng thời điểm hiện tại giống cuối những năm 1990 chứng tỏ rằng họ không biết gì cả." Do đó, đối với những người thiếu kinh nghiệm, thì lời nhận định đó dường như lại hợp lý.
Chỉ số Nasdaq 100 liên tục lập đỉnh mới khi số lượng nhà đầu tư nhỏ lẻ bùng nổ. Những cổ phiếu có giá đắt nhất – hầu hết là các công ty công nghệ, đang ở mức cao nhất từ trước đến nay so với những cổ phiếu giá rẻ. Ví dụ tiêu biểu là cổ phiếu Tesla đang giao dịch ở mức cao gấp 800 lần lợi nhuận, trong khi một công ty sản xuất xe tải điện – vốn chỉ kiếm được 36.000 USD trong quý trước nhờ lắp đặt tấm pin mặt trời, đang được định giá 16 tỷ USD.
Nasdaq 100 đã vượt đỉnh hồi bong bóng dot-com.
Theo Jacob, đây có thể không phải bong bóng dot-com. Tuy nhiên, điều đó cũng không có nghĩa là bong bóng hoàn toàn không có khả năng xảy ra.
Những cổ phiếu tăng phi mã
Scott Barbee thành lập một quỹ có mục đích hoạt động trái ngược với quỹ của Jacob vào năm 1998. Ông là một nhà đầu tư giá trị - một nhóm thường nói về bong bóng dot-com khi cảnh báo về diễn biến hiện tại của thị trường. Barbee – chủ tịch và nhà sáng lập của Aegis Financial Corp., cho hay: "Bạn thấy những cổ phiếu tăng nóng đang có mức định giá đang rất cao, trong khi những yếu tố cơ bản lại có vấn đề."
Nỗi sợ hãi lớn của những nhà đầu tư theo phe "gấu" là đợt tăng giá đáng chú ý này đang diễn ra trong bối cảnh đại dịch đã khiến Mỹ chứng kiến cuộc suy thoái tồi tệ nhất kể từ Đại suy thoái. Nhóm này đồng tình rằng dịch bệnh đã tạo điều kiện cho các công ty công nghệ lớn "thống trị" thị trường và Barbee cũng không phủ nhận, bởi mẹ của ông là một trong những người mới chuyển sang sử dụng các nền tảng mua sắm trực tuyến. Điều ông lo ngại là phần lớn đà tăng của các mức định giá lại đổ dồn vào những doanh nghiệp như Facebook, Amazon và Apple.
Trong khi đó, đối với Paul Quinsee – trưởng nhóm nghiên cứu thị trường chứng khoán tại JPMorgan Asset Management, chìa khóa để hiểu về việc các công ty này có thể chạm tới mức định giá khủng – ví dụ như vốn hóa Apple gần đây đã đạt 2.000 tỷ USD, chính là lợi nhuận. Ông nhớ lại thời điểm dot-com, đó là khi nhà đầu tư đặt cược vào kỳ vọng về lợi nhuận, trái ngược với những gì đang diễn ra.
Quinsee cho hay: "Hiện tại, ít nhất là đối với các công ty lớn, lợi nhuận dài hạn đã ‘hiện ra’. Tôi sẽ rất ngạc nhiên nếu sự sụt giảm lớn như trước đây xảy ra. Tuy nhiên, vị trí dẫn đầu thị trường có thể sẽ thay đổi."
Khác biệt về quy mô
Thị trường của năm 2020 rất khác so với 2 thập kỷ trước. Số lượng cổ phiếu trong nước của Mỹ đã giảm gần một nửa so với mức đỉnh của năm 1998 - phần lớn là nhóm vốn hóa nhỏ, hiện xuống còn 3.700. Trong 9 năm tính đến năm 1998, Mỹ ghi nhận 3.614 thương vụ IPO, còn trong 9 năm tính đến 2019 con số chỉ là 2.093.
Ở thời kỳ bong bóng dot-com lên đến đỉnh điểm, "độ tuổi" trung bình của một công ty có thể niêm yết là 5. Theo số liệu của Jay Ritter tại Đại học Florida, con số này đã tăng gấp đôi trong gần 1 thập kỷ qua. Điều đó cho thấy các công ty công nghệ mới vốn thành công trong thời kỳ dot-com hiện có xu hướng duy trì loại hình công ty tư nhân lâu hơn và họ sẽ niêm yết khi lớn mạnh hơn.
"Các nhà đầu tư mạo hiểm có thể gắn bó trong thời gian dài hơn và không phải chia sẻ sự phát triển ở giai đoạn mạnh mẽ nhất với cổ đông khác", theo Lise Buyer – hiện đang tư vấn về IPO cho các công ty công nghệ và từng phân tích về lĩnh vực này tại Credit Suisse First Boston trong thời kỳ bong bóng dot-com. Bà cho hay: "Điều này cho thấy rằng các công ty đang ở vị trí ổn định hơn? Câu trả lời chung là đúng."
Chênh lệch giữa lượng giao dịch cổ phiếu tăng trưởng và vốn hóa nhỏ đang ở mức lớn nhất kể từ thời kỳ dot-com.
Khi những công ty trong lĩnh vực tương tự như các start-up thời dot-com "học cách" duy trì hình thức công ty tư nhân, các cổ phiếu tăng trưởng có diễn biến khác biệt. Russell 3000 Growth Index hiện có tỷ số D/E chỉ cao hơn mức 1 một chút, trong khi từng ở mức 2,3 vào cuối năm 1999.
Môi trường lãi suất thấp
Ngoài ra, cách đây 2 thập kỷ, gánh nặng nợ cũng lớn hơn. Khi các công ty "dot-com" rơi vào khủng hoảng, Fed đã tăng lãi suất. Còn hiện tại, chi phí đi vay gần như bằng 0 và dường như sẽ được duy trì ở mức này trong một khoảng thời gian. Lãi suất thấp thường là yếu tố thúc đẩy cổ phiếu công nghệ, bởi nhà đầu tư sẽ được thúc đẩy tìm kiếm lợi nhuận bằng cách theo đuổi sự tăng trưởng dài hạn.
Chi phí và tỷ lệ đi vay thấp hơn, lợi nhuận cao và các doanh nghiệp đã được thúc đẩy bởi đại dịch, nhưng không phải mọi thứ đều khác đối với cổ phiếu công nghệ vào năm 2020. Dự đoán về triển vọng đối với các công ty khi không cân nhắc về định giá là một thách thức trong thời kỳ bong bóng dot-com và cả hiện tại. Có thể thấy, việc định giá các tài sản ‘vô hình’ như năng lực nghiên cứu đã trở nên quan trọng hơn, khi các công ty chi rất nhiều tiền vào các quản đầu tư khó định lượng.
Buyer nhắc lại việc nhận được những tin nhắn có nội dung chỉ trích khi không "lạc quan" về những cổ phiếu đang trong thời kỳ bong bóng được thổi phồng và sau đó bị kiện vì đưa ra dự báo khi mọi thứ sẽ sụp đổ. Bà chia sẻ: "Tôi không hề ghen tị với nhà đầu tư bên bán (sell-side analyst)."
Ngay cả Jacob – người đang quản lý 100 triệu USD, cũng lo ngại rằng nhiều cổ phiếu công nghệ vốn hóa lớn đã chạm đến đích. Ông đang chuyển hướng sang nắm giữ nhóm vốn hóa nhỏ và trung bình". Nhóm này chứng kiến biến động nhẹ hơn trong những năm gầy đây – hầu hết các ý kiến cho rằng đây là điều tốt.
Tuy nhiên, Jacob cảm thấy rằng công việc của ông đã nhàm chán hơn một chút. Ông chia sẻ: "Là một nhà đầu tư vào các công ty niêm yết trong bối cảnh hiện tại, điều này có chút chán nản. Những gì xảy ra vào cuối những năm 1990 sẽ không lặp lại, bởi đó là giai đoạn sơ khai của internet."