Theo số liệu thống kê BCTC của 27 ngân hàng giao dịch trên sàn chứng khoán cho thấy, trong 3 tháng đầu năm đa phần tỷ lệ nợ xấu nội bảng cho vay của các nhà băng đều tăng. Mặc dù vậy, một số ngân hàng vẫn duy trì tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay ở mức thấp.
Tính đến cuối quý 1/2022, nợ xấu nội bảng của 27 nhà băng là 111.147 tỷ đồng, tăng 12,4% so với đầu năm. Nhiều ngân hàng vẫn duy trì tỷ lệ nợ xấu rất thấp, dưới 1% như Techcombank, BIDV, Vietcombank, ACB, MB, BacABank. Đây đều là những ngân hàng được thị trường đánh giá cao về chất lượng tài sản trong vài năm trở lại đây.
Techcombank đang là ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu nội bảng thấp nhất, chỉ 0,66%, giảm nhẹ so với mức 0,67% hồi đầu năm. Tổng nợ xấu nội bảng của nhà băng này tăng thêm gần 148 tỷ lên mức là 2.441 tỷ đồng tính đến thời điểm cuối quý 1 trong khi dư nợ cho vay của TCB rất lớn, lên tới 365.742 tỷ đồng. Techcombank cũng là ngân hàng sở hữu nhiều trái phiếu doanh nghiệp, nếu xét tỷ lệ nợ xấu/ tổng tín dụng, tỷ lệ này của Techcombank chỉ ở mức 0,57%.
Với BacABank, tỷ lệ nợ xấu nội bảng giảm nhẹ từ 0,77% hồi đầu năm còn 0,75%. Nợ xấu của ngân hàng này tại thời điểm cuối quý 1 xấp xỉ cuối năm 2021, ở mức 645 tỷ đồng.
Một số nhà băng khác như Vietcombank, ACB và MB cũng ghi nhận sự tăng nhẹ tỷ lệ nợ xấu/dư nợ cho vay, tuy nhiên đến cuối quý 1 tỷ lệ nợ xấu nội bảng của các nhà băng này vẫn ở mức thấp, lần lượt là 0,81%; 0,82%; 0,99%. Vietcombank cũng là ngân hàng duy nhất trong nhóm Big4 có tỷ lệ nợ xấu dưới 1%.
Nợ xấu của BIDV chỉ tăng nhẹ 3,7% trong quý này lên mức 13.730 tỷ đồng. Khối nợ xấu nội bảng của BIDV hiện nay về giá trị tuyệt đối cũng thuộc top đầu, đứng thứ 3 chỉ sau VPBank và Vietinbank. Tuy nhiên, so với dư nợ cho vay lên tới hơn 1,4 triệu tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu của BIDV vẫn thuộc nhóm thấp trong hệ thống khi tăng từ 0,97% lên 1% trong quý này.
Các ngân hàng thương mại khác cũng có tỷ lệ nợ xấu tương đối thấp tính đến cuối quý 1, chỉ dao động trong khoảng từ 1-1,5% như TPBank, VietinBank, Sacombank, LienVietPostBank.
VietinBank mặc dù có tổng nợ xấu tại thời điểm cuối tháng 3 là hơn 15 nghìn tỷ đồng, nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn ở mức thấp. Lý do là vì dư nợ cho vay của nhà băng này rất lớn, đạt gần 1,3 triệu tỷ đồng.
Một trường hợp cũng đáng chú ý là HDBank. Ngân hàng này có công ty con về tài chính tiêu dùng (đặc thù tỷ lệ nợ xấu cao hơn so với ngân hàng) tuy nhiên tỷ lệ nợ xấu hợp nhất chỉ ở mức 1,46%, và nếu tách riêng công ty tài chính thì nợ xấu của ngân hàng riêng lẻ chỉ 1,17%, thuộc nhóm thấp trong ngành.
Nhiều ngân hàng đã tỏ ra thận trọng hơn đối với nợ xấu khi tăng mạnh trích lập dự phòng trong quý 1. Nhờ vậy, một số ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu khá cao như BIDV là 277%, MB là 250%, Techcombank là 160%.
Đặc biệt, VietinBank đã tăng gấp 3 lần chi phí dự phòng rủi ro tín dụng lên 4.426 tỷ đồng trong kỳ này. Điều này khiến lợi nhuận trước thuế chỉ còn 5.822 tỷ đồng, giảm 28% so với cùng kỳ năm trước. Việc tăng mạnh trích lập dự phòng rủi ro khiến tỷ lệ bao phủ nợ xấu tính đến cuối quý 1/2022 của nhà băng này đã lên mức gần 200%, tăng mạnh so với mức 180% từ cuối năm 2021.
TPBank cũng đã tăng mạnh trích lập dự phòng trong 3 tháng đầu năm với mức trích tới 755 tỷ đồng, tăng 93% so với quý 1/2022. Việc tăng trích lập dự phòng đã ảnh hưởng phần nào đến lợi nhuận trước thuế của TPBank, theo đó lợi nhuận trước thuế chỉ tăng 14,1% so với cùng kỳ.
Tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong ngắn hạn sẽ ảnh hưởng xấu tới lợi nhuận của ngân hàng. Tuy nhiên trong dài hạn, bức tranh lợi nhuận của các ngân hàng sẽ sáng sủa hơn nếu những khoản dự phòng này được hoàn nhập.
Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi Thông tư 01/2020/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng Covid-19 hết hạn vào ngày 30/6/2022 tới đây. Nếu không được gia hạn thì nợ xấu tiềm ẩn từ số dư nợ được cơ cấu theo Thông tư này nhiều khả năng được thể hiện rõ ràng hơn trên bảng cân đối tài sản của các ngân hàng, khiến rủi ro nợ xấu gia tăng.