Kinh tế Việt Nam đã có một năm thành công và đáng ghi nhận, ông Nguyễn Văn Bình chia sẻ tại phiên Tổng thể và đối thoại chính sách cấp cao trong khuôn khổ Diễn đàn kinh tế Việt Nam 2019 do Chính phủ và Ban Kinh tế Trung ương phối hợp tổ chức.
Theo đó, lần đầu tiên kể từ năm 2008, tăng trưởng kinh tế đạt 7,08%, trong nhóm các nước tăng trưởng cao nhất trong khu vực và trên thế giới, vượt qua mọi con số dự báo trước đó.
Tuy nhiên, ông Bình lưu ý rằng khi đang đứng ở trên thành công chính là lúc cần tĩnh tâm tư duy để xác định các vấn đề lớn mang tính cốt yếu, chiến lược, tạo nền tảng phát triển cho giai đoạn tới.
Bởi bên cạnh những thành tựu, Việt Nam cũng cần thẳng thắn nhìn nhận những tồn tại, hạn chế của nền kinh tế.
"Một quốc gia muốn hóa rồng, hóa hổ thì trước tiên phải duy trì được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định. Việt Nam hiện đã đạt đến một trình độ phát triển kinh tế mà để tiếp tục tiến bước trở thành một nước có thu nhập cao hơn, phải có sự đột phá trong chính sách", ông nói.
Theo đó, ông đề nghị phải tập trung vào 3 vấn đề.
Thứ nhất là về cơ hội và thách thức từ những Hiệp định thương mại tự do (FTA). Vừa qua, hiệp định CPTPP đã chính thức có hiệu lực. Như vậy tính đến nay, Việt Nam đã có 16 FTA đã và đang ký kết hoặc đang đàm phán, giúp mở rộng cánh cửa của hơn 60 nền kinh tế, trong đó có 15/20 nước G20. Đây là một lợi thế rất lớn cho Việt Nam thu hút vốn đầu tư nước ngoài khi đóng vai trò như một cửa ngõ quan trọng để tiếp cận được hầu hết các thị trường lớn trên thế giới.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đồng thời đối diện với nhiều thách thức. Trong đó, với nền công nghiệp phụ trợ còn yếu và thiếu, nhiều doanh nghiệp Việt Nam vẫn chủ yếu gia công ở giai đoạn cuối trong chuỗi sản xuất, giá trị gia tăng thấp nên khi các FTA có tính đến quy tắc xuất xứ và năng lực của công nghiệp hỗ trợ thì Việt Nam sẽ gặp nhiều bất lợi.
Do đó, ông Bình lưu ý cần làm rõ chiến lược thu hút FDI trong thời gian tới là gì? Làm thế nào để kết nối được các doanh nghiệp Việt Nam với các doanh nghiệp FDI cùng tham gia vào chuỗi giá trị, sản xuất toàn cầu, và cùng khai thác được các lợi thế của các FTA thế hệ mới mang lại?
Thứ hai là việc nắm bắt, làm chủ nền kinh tế số. Theo ông Bình, kinh tế số được cho là cơ hội của Việt Nam bởi trong lĩnh vực này, tất cả các quốc gia đều cùng một vạch xuất phát.
Trong thời đại công nghệ gắn với đổi mới sáng tạo thì những rào cản công nghệ truyền thống không còn là khoảng cách lớn nữa, cơ hội được chia đều và mọi quốc gia đều có thể vươn lên bứt phá.
"Vậy Việt Nam cần làm gì để tận dụng hiệu quả những cơ hội mà nền kinh tế số đem lại, để không bỏ lỡ chuyến tàu công nghiệp 4.0, để đưa nền kinh tế số thực sự trở thành một động lực mới cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững trong thời gian tới?", ông đặt vấn đề.
Thứ ba là câu chuyện cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện cho nguồn lực tư nhân được giải phóng. Bởi trong bối cảnh dư địa chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ không còn nhiều, thì những chính sách cơ cấu nhằm giải phóng và tạo năng lực sản xuất mới như phát triển kinh tế tư nhân, cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước... hoàn toàn có khả năng tạo ra đột phá về cải thiện năng suất lao động, về tốc độ tăng trưởng.
Do đó, ông đặt câu hỏi làm thế nào để có thể thúc đẩy, phát triển nhóm thành phần kinh tế này.