Theo ông Vũ Tiến Lộc, dù đồng tình với phương án điều chỉnh mục tiêu tăng trưởng về khoảng 4,5%, nhưng ông bày tỏ chưa thật yên tâm vì các giải pháp của Chính phủ đưa ra. Ông nhấn mạnh: Giải pháp dường như vẫn chưa đủ mạnh để có thể đạt được mục tiêu.
Cụ thể, ngoài chủ trương thúc đẩy đầu tư công, các chính sách tài khoá khác có vẻ vẫn còn dè dặt khi chủ yếu mới chỉ dừng lại ở việc giãn, hoãn thời hạn nộp thuế, phí cho doanh nghiệp .Trong điều kiện tuyệt đại bộ phận các doanh nghiệp làm ăn không có lãi thì việc tại kỳ họp này Quốc hội quyết định cắt giảm 30% thuế thu nhập cho Doanh nghiệp có quy mô nhỏ, thì cũng chẳng có thêm ý nghĩa gì nhiều.
"Tôi thiết nghĩ với mức nợ công hiện tại là 56% GDP, chúng ta vẫn còn dư địa để thực hiện các biện pháp giãn, hoãn cắt, giảm thuế với liều lượng mạnh hơn trong thời gian tới", ông nói. Ví dụ, có thể kéo dài hơn thời hạn giãn, hoãn các khoản thuế, phí phải nộp tới 12 tháng , thay vì chỉ 3 hay 6 tháng.
Theo ông, Chính phủ và Bộ Tài chính đã rất thành công trong việc giảm mức nợ công. Do vậy, ông ch rằng đây là thời điểm Việt Nam có thể sử dụng chính sách tài khóa ngược chu kỳ để đối phó với dịch bệnh, tức là giảm nợ công trong giai đoạn kinh tế phát triển thuận lợi để tăng nợ công trong giai đoạn kinh tế gặp khó khăn. Nghệ thuật của việc điều hành chính sách tài khoá luôn là như vậy – ông nói.
"Chính sách tiền tệ thì có vẻ mạnh mẽ hơn, chúng tôi đánh giá cao việc NHNN đã tiên phong trong việc thực hiện các chỉ đạo của Chính phủ về trợ giúp doanh nghiệp , đã kịp thời hai lần liên tiếp hạ lãi suất điều hành trong những tháng đầu năm. Nhưng tác động của chính sách này đến lãi suất thị trường, đặc biệt là lãi suất trung và dài hạn vẫn chưa thực sự rõ nét", ông cho biết.
Theo ông, việc cơ cấu lại nợ về thời hạn và lãi suất cho các doanh nghiệp, mới chỉ giúp "cầm máu", mà chưa giúp "chữa lành được vết thương "và tạo ra được động lực tăng trưởng mới cho doanh nghiệp.
Vì vậy, ông đề nghị Chính phủ, NHNN và Bộ Tài chính sớm nghiên cứu ban hành một gói hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn cho các doanh nghiệp bị ảnh hưởng nặng nề bởi dịch bệnh trong các ngành như du lịch, hàng không... Tất nhiên, gói này cần có giới hạn phù hợp để ngăn ngừa lạm phát có nguy cơ quay trở lại.
Trong khi dự kiến mục tiêu tăng trưởng khoảng 4,5 % là khá cao so với dự báo của các tổ chức quốc tế, nhưng Chính phủ dường như lại có phần nới lỏng mục tiêu kiềm chế lạm phát khi điều chỉnh mục tiêu lạm phát "dưới 4%" thành "khoảng 4%".
Theo ông, dù rất chia sẻ với quan điểm thận trọng của Chính phủ, nhưng ông đề xuất Chính phủ sẽ phấn đấu để đạt được mức lạm phát dưới 4%. Điều này rất quan trọng vì đó là cam kết ổn định kinh tế vĩ mô , thể hiện uy tín và tầm nhìn của Chính phủ trong dài hạn là điểm neo giữ của niềm tin để người dân và các nhà đầu tư yên tâm sản xuất kinh doanh.
Ông cũng lưu ý bên cạnh những thách thức, thời hậu Covid-19 cũng đang mở ra một số cơ hội mà Việt Nam cần nắm bắt ,nhất là cơ hội từ việc dịch chuyển các làn sóng đầu tư. Việc thành lập lập tổ công tác đặc biệt để thúc đẩy điều này là cần thiết, tuy nhiên, ông nhấn mạnh điểm then chốt là đẩy mạnh cải cách thể chế, cắt giảm thủ tục hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh của đất nước.
Theo ông, trong khoảng 2 năm rưỡi kể từ đầu nhiệm kỳ, cải cách thể chế đã được triển khai khá mạnh mẽ với nhiều khí thế nhưng từ hơn một năm nay, đà cải cách đang có phần chững lại, nhiều mục tiêu cải cách hướng tới mục tiêu nhóm 3, nhóm 4 trong ASEAN đang trở thành lỡ hẹn.
"Vì vậy tái khởi động đà cải cách để tái khởi động nền kinh tế đang là yêu cầu bức thiết đặt ra. Tôi đề nghị Quốc hội và Chính phủ cần quan tâm đặc biệt tới nhiệm vụ hệ trọng này", ông nói.