-Theo quan sát của anh, tâm lý thị trường, các nhà đầu tư trong thời gian gần đây đang diễn biến thế nào?
Tâm lý thị trường trong thời gian qua khá là bất an. Bên cạnh lý do liên tiếp nhận được những tin xấu về tình hình dịch bệnh trên thế giới, chúng ta cũng chưa biết được khi nào bệnh dịch sẽ kết thúc bởi việc điều chế thuốc đặc trị hay vaccine phòng bệnh sẽ mất nhiều thời gian.
Hành động của các chính phủ trên thế giới cũng rất khác nhau, thậm chí đôi khi còn bất nhất về cách đối phó với bệnh dịch. Mặc dù các gói kích thích kinh tế quyết liệt đã được đưa nhưng nhìn chung thị trường phản ứng thường dựa trên thông tin ngắn hạn (short sighted).
-So với tình hình dịch SARS hồi năm 2003, khủng hoảng kinh tế giai đoạn 2007 – 2008, anh đánh giá như thế nào về sức đề kháng của kinh tế Việt Nam thời điểm hiện tại?
Nền tảng kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện nay là khá tốt, tốt hơn nhiều so với đợt khủng hoảng kinh tế 2007 – 2008. Tuy nhiên, độ mở kinh tế hiện nay cũng lớn hơn và tác động có thể là sâu rộng hơn.
Khác hẳn với khủng hoảng 2007 – 2008 và những năm sau đó, trong những năm gần đây tiết kiệm trong nước và đầu tư là khá cân bằng, do vậy Việt Nam không phải vay nợ nước ngoài nhiều, đặc biệt là vay nợ cho các tập đoàn kinh tế nhà nước.
Tăng trưởng cung tiền/tín dụng cũng được khống chế cẩn trọng hơn nhiều nên lạm phát ở mức thấp, khác hẳn với lạm phát liên tục ở mức hai con số như trước đây. Nhờ đó, lãi suất và tỷ giá khá ổn định, sức khỏe hệ thống ngân hàng được cải thiện nhiều và có khả năng chống đỡ tốt hơn. Đặc biệt, kinh nghiệm và kiến thức điều hành chính sách kinh tế của chính phủ hiện nay cũng tốt hơn nhiều so với thời kỳ trước.
-Giả định nếu có suy thoái, Việt Nam cần những chính sách nào để có thể giảm thiểu được những nguy cơ có thể gặp phải?
Tôi cho rằng trước tiên Việt Nam cần chủ động xây dựng các kịch bản chính sách kinh tế ứng phó khác nhau tùy theo thời gian kéo dài và mức độ nghiêm trọng của bệnh dịch.
Nếu bệnh dịch chỉ kéo dài gói gọn trong 1-2 tháng tới thì phản ứng chính sách nên mang tính "hỗ trợ", tập trung vào việc trợ giúp thanh khoản cho doanh nghiệp, chi trả bảo hiểm cho người lao động mất việc, hỗ trợ các hộ gia đình gặp khó khăn,... Bên cạnh đó, chính phủ cũng nên gỡ bỏ vướng mắc, thúc đẩy triển khai ngay các dự án đầu tư cơ sở hạ tầng đã được phê duyệt.
Tuy nhiên, nếu bệnh dịch kéo dài thêm nhiều hơn 2-3 tháng nữa có lẽ chính phủ cần tính tới các biện pháp thiệp mạnh mẽ hơn mang tính "cứu trợ", giảm thiểu sự đổ vỡ của các doanh nghiệp.
Và trong bất kỳ tình huống nào, việc đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm và các nhu cầu thiết yếu khác phải được đặt lên hàng đầu.
-Anh nhìn nhận thế nào về các chính sách, gói hỗ trợ được Chính phủ tung ra hiện tại?
Các gói hỗ trợ đang thực hiện tôi thấy khá là phù hợp với giai đoạn hiện nay của bệnh dịch. Mục tiêu của chính sách tiền tệ không hẳn là kích thích tổng cầu, mà là hướng tới việc giải quyết thanh khoản cho doanh nghiệp, giúp họ sống sót được qua giai đoạn khó khăn.
Việc giãn nợ, giảm nợ, tái cơ cấu nợ cho doanh nghiệp Chính phủ để cho các ngân hàng thương mại tự dàn xếp với doanh nghiệp, chứ họ không bơm tiền tài trợ cho chi phí đó. Chính sách tài khóa cũng đang hướng tới mục tiêu trợ giúp thanh khoản cho doanh nghiệp, thông qua việc giảm thuế, miễn thuế phí, gia hạn nộp thuế, hoãn đóng BHXH...
-Các ngân hàng đang dự kiến tung ra gói tín dụng 285.000 tỷ đồng với lãi suất thấp, và có thể lớn hơn trong thời gian tới để hỗ trợ doanh nghiệp. Quan điểm của anh về ý nghĩa của gói tín dụng này?
Nhìn chung chính sách tiền tệ hướng tới việc kích thích tăng trưởng tín dụng để phục vụ mục đích đầu tư hay tiêu dùng trong giai đoạn sẽ có hiệu quả rất thấp, ngoại trừ các nhu cầu thiết yếu, tiêu dùng của người dân trong giai đoạn này sẽ giảm.
Các ngành chịu ảnh hưởng trực tiếp của bệnh dịch như hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú và ăn uống,… thì chính sách tiền tệ càng không thể tác động tới được. Các đơn hàng bị đình trệ hoặc bị cắt giảm, do vậy nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cũng thấp.
Tuy nhiên, nếu gói tín dụng này hướng tới việc cho phép các doanh nghiệp đang chịu ảnh hưởng trực tiếp được đảo nợ hay tái cấu trúc lại các khoản nợ thì sẽ cải thiện được tính thanh khoản và hạ chi phí cho doanh nghiệp, giúp họ kéo dài khả năng chống đỡ.
-Các ngân hàng cũng đã có Thông tư về việc cơ cấu lại nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng. Bên cạnh điểm tích cực của chính sách này thì liệu có đi kèm rủi ro gì không?
Tái cơ cấu lại nợ cho khách hàng bị ảnh hưởng là một trong chính sách trị đúng bệnh trong giai đoạn hiện nay của NHNN. Các ngân hàng chỉ cần xác định nhanh và đúng đối tượng để thực hiện. Bản thân các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng thì khoản cho vay đã gặp rủi ro rồi. Chính sách này có lợi cho cả đôi bên, giảm chi phí và cải thiện thanh khoản cho doanh nghiệp, ngân hàng chia sẻ chi phí và tránh được nợ xấu.
-Vậy anh đánh giá thế nào về dư địa trong chính sách tiền tệ của NHNN trong thời gian tới, để hỗ trợ nền kinh tế?
Dư địa chính sách tiền tệ vẫn còn tuy nhiên chúng ta chỉ nên dùng tiếp trong giai đoạn tiếp theo khi bệnh dịch kéo dài và trầm trọng hơn. Dư địa chính sách tiền tệ cũng không phải là một hằng số. Nếu Việt Nam tiếp tục làm tốt việc cung ứng các hàng hàng hóa thiết yếu như lương thực, thực phẩm, điện, nước,… thì mặt bằng giá cả trong nước sẽ ổn định, lúc đó nhà điều hành cũng có khả năng can thiệp trực tiếp và mạnh hơn nếu cần thiết.
Tuy nhiên, sử dụng dư địa tiền tiền còn lại đến mức nào và trong giai đoạn hậu khủng hoảng thì hành động ra sao thì NHNN cũng cần tính toán kỹ để tránh không xảy ra lạm phát, bong bóng giá tài sản, bất ổn tỷ giá,… khi nền kinh tế bắt đầu phục hồi.
-Trong khi nhiều Chính phủ đã đưa ra gói kích cầu cho nền kinh tế, Việt Nam thì tỏ ra khá thận trọng, và thường dùng là gói cứu trợ, chủ yếu dùng các nguồn tiền có sẵn trong nền kinh tế thay vì bơm mới lượng tiền. Theo anh, tạo sao lại như vậy?
Như tôi đã nói ở trên, tùy thuộc vào diễn biến kéo dài và mức độ nghiêm trọng của bệnh dịch mà Chính phủ Việt Nam nên đưa ra các gói hỗ trợ hay cứu trợ sao cho phù hợp. Vấn đề của doanh nghiệp hiện nay không phải là do thiếu tiền để đầu tư mà là do đầu ra bị đứt gãy, lượng tiền/thanh khoản của hệ thống ngân hàng dồi dào nên chúng ta chưa cần phải bơm tiền ào ạt như các nước khác.
Mặt khác, Việt Nam là nền kinh tế nhỏ và rất mở, vấn đề tỷ giá cũng rất quan trọng. Việc bơm tiền ào ạt như các nền kinh tế lớn như Mỹ hay EU không chỉ dẫn tới lạm phát mà còn là sự mất giá mạnh của nội tệ. Hậu quả có thể là sự tháo chạy của vốn nước ngoài khiến tình hình còn nghiêm trọng hơn. Khi đó rất có thể sẽ xảy ra khủng hoảng kép.
Tỷ trọng tiêu dùng – tiết kiệm trong tổng thu nhập của các hộ gia đình của người dân Việt Nam cũng rất khác so với các nước phát triển. Do vậy, ngoài lý do nguồn lực ngân sách hạn hẹp, thì chúng ta cũng không thể dùng các chính sách mạnh tay như tặng tiền mặt cho người dân để chi tiêu. Chính sách của Việt Nam lúc này chỉ nên dừng ở mức hỗ trợ thanh khoản và giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp, trợ giúp người lao động mất việc bao gồm cả những người nằm ngoài khu vực chính thức.
-Đầu tư công là một trong những biện pháp được nhắc đến nhằm giải phóng lượng tiền hàng trăm nghìn tỷ đồng đang nằm yên. Nhưng đâu mới là chính sách cần để giải phóng tiền?
Đẩy nhanh giải ngân đầu tư công hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của chính phủ. Không có cách gì khác hơn là các bộ ngành, chính phủ và cơ quan lập pháp phải nhanh chóng ngồi lại với nhau để xem xét vướng mắc ở đâu để tháo gỡ.
Đầu tư công đóng vai trò quan trọng hơn bao giờ hết. Một mặt, đầu tư công giải quyết đúng nhu cầu của nền kinh tế là phải xây dựng cơ sở hạ tầng, mặt khác nó diễn ra đúng thời điểm nền kinh tế đang cần. Tuy nhiên, đầu tư công phải đúng mục đích và tập trung vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng đã được phê duyệt. Đặc biệt là phải có sự giám sát chặt chẽ của Quốc hội để tránh xảy ra những hậu quả đáng tiếc sau này.
Trong lúc cầu chi tiêu từ khu vực doanh nghiệp và dân cư đang giảm sút do dịch bệnh, nhà nước cần đóng vai trò là đối tượng chi tiêu chính. Việc này sẽ tạo ra thu nhập cho nền kinh tế, kéo chi tiêu của nền kinh tế lên.
-Chính sách kinh tế ứng phó với nguy cơ khủng hoảng của Việt Nam có cần lưu ý thêm yếu tố nào nữa không?
Tôi cho rằng các chính sách điều hành vĩ mô không giúp chữa trị được bệnh dịch. Tuy nhiên, những chính sách tốt lại có thể giảm thiểu được tác động tiêu cực, đặc biệt chúng sẽ quyết định nền kinh tế có khả năng phục hồi nhanh chóng hay không một khi bệnh dịch được kiểm soát.
Bất kể bệnh dịch kéo dài bao lâu và tác động thế nào, nhưng một khi lạm phát và lãi suất được giữ ở mức thấp, tỷ giá được giữ ổn định, và đầu tư công được giải ngân đúng và giám sát chặt chẽ, môi trường đầu tư được cải thiện, thì sau bệnh dịch tôi tin rằng nền kinh tế sẽ hồi phục nhanh chóng. Còn không, có thể chúng ta sẽ lại mất nhiều năm tiếp theo để giải quyết các vấn đề không phải bệnh dịch, nền kinh tế sẽ đình trệ kéo dài như trong giai đoạn hậu khủng hoảng 2007 - 2008.
-Điều đáng sợ nhất của dịch Covid-19 theo góc nhìn của anh là gì?
Khả năng lây nhiễm nhanh khiến nhiều nước ban đầu chủ quan đã không kịp trở tay. Khi chưa có thuốc đặc trị và vaxin phòng bệnh thì covid-19 reo rắc một nỗi sợ vô hình khiến các hoạt động bị ngưng trệ. Các chính sách kinh tế lại không có khả năng chữa trị được loại khủng hoảng này mà chỉ có thể làm giảm thiểu tác động của nó.
-Anh có nói vui rằng tỷ trọng cổ phiếu – tiền mặt của đã tăng lên 30 – 70. Vậy, anh có lời khuyên gì cho nhà đầu tư trong thời điểm hiện tại? Người có tiền nên làm gì lúc này?
Đưa ra lời khuyên cho giới đầu tư thật là khó bởi vì mỗi người có một mức độ chấp nhận rủi ro khác nhau. Khi thị trường sụt giảm mạnh như trong thời gian qua thì cơ hội đầu tư cũng xuất hiện nhiều hơn, đó là cổ phiếu của những doanh nghiệp thuộc những ngành nghề ít chịu tác động và có truyền thống chi trả cổ tức cao.
Tôi không có ý định khuyên nhà đầu tư phải làm gì. Tuy nhiên, bất kể họ làm gì thì cũng phải tính đến tình huống bệnh dịch còn có thể diễn biến xấu hơn nữa, phải tính đến khả năng "chịu đựng" của mình và chiến lược sửa sai khi cần thiết.
-Cảm ơn anh đã chia sẻ!