Trong hai năm trở lại đây ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã phát triển hơn, Phó thủ tướng Trương Hoà Bình cho biết trong báo cáo chung thực hiện các nghị quyết về chất vấn của Quốc hội từ đầu nhiệm kỳ.
Sáng 30/10 Quốc hội bắt đầu hoạt động chất vấn tại kỳ họp thứ sáu, kéo dài trong ba ngày.
Báo cáo tổng hợp việc thực hiện các nghị quyết của Quốc hội về giám sát chuyên đề và chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến hết kỳ họp thứ tư của Quốc hội của Chính phủ đã được Phó thủ tướng Trương Hoà Bình trình bày tóm tắt ngay đầu phiên thứ nhất.
Sau khái quát chung, Phó thủ tướng thông tin về kết quả từng lĩnh vực cụ thể, trong đó có lĩnh vực công thương với yêu cầu phát triển ngành công nghiêp ô tô.
Phó thủ tướng cho biết, để phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, Chính phủ đã ban hành nghị định số 116/2017/NĐ-CP ngày 17/10/ 2017 quy định điều kiện sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô. Thủ tướng Chính phủ đã chỉ đạo thành lập tổ công tác liên ngành đánh giá việc thực hiện Chiến lược, Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, Tổ công tác đã làm việc với các doanh nghiệp ngành ô tô Việt Nam, xác định rõ kế hoạch phát triển sản xuất của từng doanh nghiệp trong giai đoạn 2018-2020; tổng hợp các khó khăn, vướng mắc, kiến nghị của doanh nghiệp và đề xuất giải pháp tháo gỡ, hỗ trợ doanh nghiệp.
Trong 2 năm trở lại đây, ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã phát triển hơn, Phó thủ tướng nhấn mạnh.
Thông tin tiếp theo được nêu tại báo cáo là để thực hiện chính sách phát triển sản xuất sản phẩm cơ khí trọng điểm, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 319/QĐ-TTg ngày 15 / 3 / 2018 phê duyệt Chiến lược phát triển ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2035, với danh mục sản phẩm cơ khí trọng điểm từ năm 2017 đến năm 2025 được ưu tiên đầu tư phát triển.
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã có nhiều chỉ đạo đối với Bộ Công Thương chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức đánh giá thực hiện thành công chiến lược ngành, báo cáo nêu rõ.
Cũng được Chính phủ gửi đến Quốc hội, báo cáo riêng về lĩnh vực công thương nêu nhiều thông tin chi tiết hơn về công tác thực hiện quy hoạch phát triển ngành ôtô và sản phẩm cơ khí trọng điểm.
Để chứng minh nhận định ngành công nghiệp ôtô Việt Nam đã phát triển khá nhanh trong 2 năm trở lại đây, báo cáo này nêu rõ: năm 2015, lần đầu tiên sản lượng sản xuất, lắp ráp xe ô tô trong nước đạt trên 200 nghìn xe/năm, tốc độ tăng so với năm 2014 đạt 51%. Năm 2016, sản lượng tiếp tục tăng mạnh, đạt trên 283,3 nghìn xe/năm. Một số loại sản phẩm đã xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Myanmar, Trung Mỹ… Ngành ô tô đã đóng góp hàng tỷ USD vào ngân sách Nhà nước, góp phần giảm nhập siêu. Đồng thời tạo ra việc làm trực tiếp cho hơn 120 nghìn lao động.
Đến năm 2018, ngành sản xuất ôtô trong nước có khoảng 173 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp, trong đó 56 doanh nghiệp sản xuất xe từ linh kiện rời, 117 doanh nghiệp sản xuất từ xe cơ sở. Đa phần các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia sâu vào chuỗi sản xuất ôtô toàn cầu. Tổng công suất lắp ráp thiết kế khoảng 500 nghìn xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 47%, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 53%.
Có nhiều hãng lớn có hoạt động sản xuất, lắp ráp trong nước, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe trong nước, với tổng sản lượng của thị trường xe du lịch khoảng 210 nghìn xe/năm trong năm 2016, trong đó sản lượng ôtô con khoảng trên 160 nghìn chiếc.
Các chủng loại xe tải, xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng sản xuất trong nước đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đạt mục tiêu đề ra đáp ứng về cơ bản thị trường nội địa (xe tải nhỏ đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa trung bình 50%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, với tỷ lệ nội địa hóa đạt từ 45% đến 50% vượt chỉ tiêu so với quy hoạch).
Tuy nhiên, Chính phủ cũng nêu không ít hạn chế, như ngành ôtô vẫn chưa tạo được sự hợp tác - liên kết và chuyên môn hoá giữa các doanh nghiệp trong sản xuất - lắp ráp ôtô và sản xuất phụ tùng linh kiện. Chưa hình thành được hệ thống các nhà cung cấp nguyên vật liệu và sản xuất linh kiện quy mô lớn do đó tỷ lệ nội địa hóa của một số dòng xe còn đạt thấp so với mục tiêu đề ra.
Vì vậy, thời gian tới các nhà sản xuất ôtô trong nước cần sớm có các giải pháp hữu hiệu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp lớn nước ngoài trong việc sản xuất linh kiện và phụ tùng, trong đó tập trung vào các bộ phận quan trọng, hàm lượng công lượng công nghệ cao (động cơ - hộp số - bộ truyền động)… để phục vụ nhu cầu của thị trường trong nước, thay thế nhập khẩu, tiến tới xuất khẩu.
Về tỷ lệ nội địa hoá đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi, mục tiêu đề ra là 40% vào năm 2005, 60% vào năm 2010, tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7 - 10%, trong đó Thaco đạt 15 - 18%, Toyota Việt Nam đạt 37% đối với riêng dòng xe Innova, thấp hơn mục tiêu đề ra. Các sản phẩm đã được nội địa hóa mang hàm lượng công nghệ rất thấp như: săm, lốp ô tô, ghế ngồi, gương, kính, bộ dây điện, ắc-quy, sản phẩm nhựa... Có tới 80 - 90% nguyên liệu chính cho sản xuất linh kiện như thép hợp kim, hợp kim nhôm, hạt nhựa, cao su kỹ thuật cao hiện phải nhập khẩu. Vật liệu làm khuôn mẫu chủ yếu cũng phải nhập khẩu. Hàng năm, các doanh nghiệp phải nhập khẩu khoảng 2 - 3,5 tỷ USD các linh kiện, phụ tùng phục vụ cho sản xuất lắp ráp và sửa chữa xe.
Theo Chính phủ, năng lực yếu kém của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp phụ trợ cũng là điều đáng lưu tâm. Các nhà sản xuất khuôn mẫu hoặc có quy mô không lớn hoặc thiếu sự liên kết phối hợp để phát triển. Các doanh nghiệp sản xuất phôi và chi tiết đúc cho ngành chưa nhiều và tỉ lệ sai hỏng còn cao, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành.
Hiện nay, tỷ lệ nội địa hóa của các nước trong khu vực trung bình đã đạt được 65 - 70%, Thái Lan đạt tới 80%. Như vậy, nếu các nhà sản xuất ôtô trong nước không sớm có giải pháp hữu hiệu nâng cao tỷ lệ nội địa hóa, chắc chắn sẽ khó lòng cạnh tranh với thị trường khu vực khi AFTA có hiệu lực, Chính phủ đánh giá.