Dưới đây là diễn biến của thị trường chứng khoán Mỹ qua một số đời tổng thống.
1. Ronald Reagen
Nhiệm kỳ 1: +30% (20/1/1981 - 20/1/1985)
Nhiệm kỳ 2: +67% (20/1/1985 - 20/1/1989)
4 năm đầu tiên tại Nhà Trắng của tổng thống Ronald Reagan không mang lại nhiều lực đẩy cho Phố Wall.
Bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến chống lạm phát của chủ tịch Fed Paul Volcker, kinh tế Mỹ rơi vào suy thoái ngắn hồi tháng 7/1981. Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên gần 11%.
Chiến lược tăng lãi suất của Volcker và cắt giảm thuế của Reagan cuối cùng cũng giải quyết được vấn đề lạm phát, tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Dưới thời Reagan, Mỹ tăng chi quốc phòng mạnh tay nhằm đối phó với Liên Xô.
Dù kinh tế mạnh mẽ, Phố Wall lại có ngày tồi tệ nhất lịch sử dưới thời Reagan. Dow Jones giảm tới 22,6%, tương đương khoảng 5.000 điểm ngày nay, trong Thứ hai Đen 19/10/1987.
Dù vậy, S&P 500 vẫn có 5 năm tăng trưởng hai con số dưới thời Reagan, trong đó có lần tăng 26% trong năm 1985.
2. George H.W. Bush
Nhiệm kỳ 1: +51% (20/1/1989 - 20/1/1993)
Nền kinh tế và thị trường chứng khoán Mỹ tăng mạnh trong năm đầu tiên dưới thời H.W. Bush. S&P 500 tăng 27% vào năm 1989.
Tuy nhiên, một cuộc khủng hoảng tiết kiệm và cho vay đã xảy ra. Do ảnh hưởng từ chiến tranh Vùng Vịnh, giá dầu đã tăng hơn 2 lần sau khi Iraq tiến quân vào Kuwait. Kinh tế Mỹ suy thoái nhẹ vào tháng 7/1990.
Đợt suy thoái kết thúc vào tháng 3/1991 nhưng quá trình kinh tế phục hồi khá gian nan. Hai năm sau, tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở khoảng 7%. Chính tình trạng này đã khiến ông H.W. Bush thất bại khi tái tranh cử năm 1992.
3. Bill Clinton
Nhiệm kỳ 1: +79% (20/1/1993 - 20/1/1997)
Nhiệm kỳ 2: +73% (20/1/1997 - 20/1/2001)
Những năm 1990 có thể coi là thời hoàng kim của Phố Wall. Chứng khoán thăng hoa - S&P 500 tăng tới 210% dưới thời tổng thống Bill Clinton – nhờ nhà đầu tư đón nhận sự trỗi dậy của internet và tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Hai trong số 10 năm tốt nhất của S&P 500 – năm 1995 và 1997, diễn ra dưới thời Clinton.
Kinh tế Mỹ có 5 năm GDP tăng trưởng trên 4% trong 8 năm nhiệm kỳ của Clinton. Lạm phát ổn định. Tỷ lệ thất nghiệp dưới 4%. Mỹ có giai đoạn tăng trưởng kinh tế không bị gián đoạn dài nhất lịch sử hiện đại.
Đây còn là giai đoạn bùng nổ dotcom – sự ra đời của một ngành công nghiệp hoàn toàn mới. Nasdaq tăng 7 lần kể từ năm 1993 đến đỉnh hồi đầu năm 2000. Xu hướng này đã tạo ra một lượng tài sản khổng lồ - phần lớn chúng sẽ biến mất khi bong bóng này vỡ.
4. George W. Bush
Nhiệm kỳ 1: -12% (20/1/2001 - 20/1/2005)
Nhiệm kỳ 2: -31% (20/1/2005 - 20/1/2009)
Những nhà đầu tư đặt cược vào việc một doanh nhân làm ông chủ Nhà Trắng đồng nghĩa lợi nhuận sẽ mạnh mẽ đã hoàn toàn thất vọng dưới thời tổng thống George W. Bush.
S&P 500 giảm 40% dưới thời Bush, tệ nhất trong các chính quyền thời hiện đại.
Bush thừa hưởng sự tàn lụi của dotcom, tạo ra đợt suy thoái năm 2001. Tình trạng này càng thêm tồi tệ bởi vụ tấn công khủng bố ngày 9/11.
Tăng trưởng bắt đầu lấy đà trở lại vào năm 2004 và 2005, phần nào nhờ chính sách lãi suất thấp cùng bùng nổ trong lĩnh vực nhà ở. Tuy nhiên, bong bóng bất động sản cũng hình thành, dấu hiệu mở ra một cuộc đại suy thoái và khủng hoảng tài chính đáng sợ nhất trong cả thế kỷ.
Trong quý cuối cùng của nhiệm kỳ W. Bush, tăng trưởng GDP thường niên giảm còn 8,4%. Tỷ lệ thất nghiệp bắt đầu tăng nhanh. S&P 500 giảm 38% trong năm 2008, năm tệ nhất kể từ thời Đại suy thoái.
5. Barack Obama
Nhiệm kỳ 1: +85% (20/1/2009 - 20/1/2013)
Nhiệm kỳ 2: +53% (20/1/2013 - 20/1/2017)
Phố Wall tiếp tục giảm trong vài tháng đầu nhiệm kỳ của tổng thống Barack Obama.
Ngành tài chính và ôtô đứng trên bờ vực sụp đổ trước khi chính phủ Mỹ cứu trợ. Tỷ lệ thất nghiệp đạt đỉnh 10% vào năm 2009, gấp đôi trong gần 1 năm.
Thị trường chứng khoán Mỹ thoát đáy vào tháng 3/2009 nhưng nền kinh tế phục hồi chậm chạp, tạo ra khởi đầu của đợt thị trường giá lên dài nhất lịch sử Mỹ.
Thoát khỏi vực sâu của đại suy thoái là một quá trình dài và chậm. Tăng trưởng GDP hàng năm của Mỹ không thể vượt quá 3% dưới thời Obama.
Với hy vọng hỗ trợ nền kinh tế, Fed tiếp tục bơm tiền vào hệ thống. Thử nghiệm chưa từng có tiền lệ này giúp chứng khoán Mỹ thăng hoa – S&P 500 tăng gần gấp 3 – nhưng cũng tạo ra bất bình đẳng thu nhập và chủ nghĩa dân túy.
6. Donald Trump
Nhiệm kỳ hiện tại: +18% (20/1/2017 - 20/1/2019)
Chiến thắng của Tổng thống Donald Trump đã mở ra một đợt tăng mạnh cho Phố Wall.
Những chính sách thuận lợi cho doanh nghiệp như giảm thuế, giảm bớt quy định và chi hạ tầng đã đưa Dow Jones từ 18.332 điểm hôm 8/11/2016 lên 21.000 điểm vào tháng 3/2017.
Thành tựu nổi bật của Trump – cải tổ thuế - đã khiến thị trường bùng nổ quá mức. Dow Jones cuối cùng đã tăng lên trên 26.000. Tăng trưởng kinh tế vượt 4% vào giữa năm 2018. Lợi nhuận doanh nghiệp cũng thăng hoa, tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 3,7%.
Nhưng đã tăng nhờ Trump cũng mất dần trong năm 2018.
Cuộc chiến thương mại do tổng thống Mỹ phát động tạo ra bất ổn sâu sắc. Chính sách thuế và chi tiêu đe dọa làm nền kinh tế quá nóng, buộc Fed phải can thiệp bằng cách tăng lãi suất. Trong năm 2018, S&P 500 đã có năm tệ nhất một thập kỷ.
Tính đến ngày 20/1, chứng khoán Mỹ tăng 18%.