Ô nhiễm chất thải vẫn cấp thiết
Theo Văn phòng Điều phối nông thôn mới (NTM) Hà Tĩnh, ô nhiễm chất thải sinh hoạt tại khu vực nông thôn đang là vấn đề vô cùng cấp thiết. Với dân số sống ở nông thôn hơn 1 triệu người, ước tính, mỗi ngày lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trên địa bàn nông thôn Hà Tĩnh khoảng 700 tấn/ngày với tỷ lệ thu gom xử lý đạt 70%; lượng nước thải khoảng 83.000m3/ngày đêm, nhưng phần lớn chưa được xử lý đúng quy định. Cùng đó, hệ thống thoát nước thải của nhiều xã chưa được quan tâm đầu tư. Ý thức trách nhiệm của người dân chưa cao, tình trạng xả thải bừa bãi tại các xã vẫn còn phổ biến...
Chất thải được phân loại thành rác tái chế, rác khó phân hủy và dễ phân hủy. Ảnh: I.T
Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn ở khu vực nông thôn còn thấp dẫn đến lượng rác thải tập trung về các điểm tập kết và các điểm xử lý cao, gây quá tải cho các điểm tập kết, bãi rác, điểm xử lý rác; chi phí để vận chuyển và xử lý rác cao, gây gánh nặng cho ngân sách nhà nước và người dân. |
Văn phòng Điều phối NTM Hà Tĩnh cho biết, tỉnh có 25 làng nghề nhưng môi trường đang ngày càng bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân. Trong đó, chủ yếu là do hệ thống hạ tầng xử lý chất thải chưa được đầu tư đúng quy định; việc ứng dụng khoa học - công nghệ còn hạn chế; nhận thức của người dân về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước với vấn đề bảo vệ môi trường còn thấp; ý thức trong sản xuất và sinh hoạt còn yếu; quản lý của Nhà nước về bảo vệ môi trường ở các làng nghề chưa tốt.
Mặc dù đã được các cấp, các ngành quan tâm, đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống xử lý chất thải, tỉnh Hà Tĩnh cũng đã tổ chức tham quan một số địa phương đầu tư kinh phí xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt tập trung như Ninh Bình, Thái Nguyên. Mặc dù vậy, chi phí đầu tư cao và phải có kỹ thuật vận hành cũng như kinh phí duy trì hàng năm.
“Đặc biệt, công tác phân loại chất thải rắn tại nguồn mới chỉ dừng lại ở mô hình, việc tái chế, tái sử dụng chưa được chú trọng. Tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn ở khu vực nông thôn còn thấp dẫn đến lượng rác thải tập trung về các điểm tập kết và các điểm xử lý cao, gây quá tải cho các điểm tập kết, bãi rác, điểm xử lý rác; chi phí để vận chuyển và xử lý rác cao, gây gánh nặng cho ngân sách nhà nước và người dân” - Văn phòng Điều phối NTM Hà Tĩnh nêu.
Quản lý và kỹ thuật “tiếp cận từ cộng đồng”
Trước thực trạng ô nhiễm chất thải cấp thiết ở nông thôn Hà Tĩnh, Văn phòng Điều phối NTM tỉnh phối hợp với Trung tâm Ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ nghiên cứu đề tài “Đồng bộ hóa quản lý kỹ thuật trong xử lý rác và nước thải sinh hoạt trong khu dân cư”. Trong đó, chất thải sinh hoạt được thu gom, phân loại tại chỗ, nước thải sinh hoạt thí điểm thực hiện các hình thức theo phương án thu gom xử lý nhỏ lẻ tại chỗ với công nghệ đơn giản, dễ áp dụng, chi phí thấp và phù hợp với khu vực nông thôn.
Theo định hướng trên, giải pháp quản lý tập trung vào tuyên truyền, giáo dục để hình thành ý thức về bảo vệ môi trường từ gia đình và cộng đồng; xây dựng quy chế quản lý và sự tham gia của các bên liên quan phù hợp với điều kiện thực tiễn nhằm huy động sự tham gia và đồng bộ hóa công tác quản lý và kỹ thuật trong quản lý phân loại xử lý nước thải và rác thải sinh hoạt.
Đồng thời, xây dựng bổ sung chỉ số cứng phân loại, xử lý nước thải, rác thải tại nguồn vào tiêu chí số 17 trong xây dựng NTM. Xây dựng quy chế cộng đồng thu gom, phân loại, xử lý nước thải, rác thải sinh hoạt. Xây dựng dự thảo về chế tài xử phạt hành vi vi phạm về xả thải chưa qua xử lý.
Điểm đáng chú ý trong giải pháp này là xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích người dân thực hiện thu gom, xử lý nước thải tại nguồn. Khen thưởng các mô hình điển hình, địa phương điển hình trong thực hiện và ban hành các chính sách đồng hành.
Về mặt kỹ thuật, giải pháp ứng dụng chế phẩm sinh học vào xử lý chất thải hữu cơ có trong chất thải và nước sinh hoạt với mục tiêu: Hạn chế được lượng rác thải thu gom, xử lý tập trung, tái sử dụng chất thải làm phân bón; khắc phục hạn chế về chi phí cao cho thu gom, xử lý nước thải tập trung; đề xuất phương án thu gom, xử lý nhỏ lẻ tại chỗ với công nghệ đơn giản, dễ áp dụng, chí phí thấp và phù hợp với khu vực nông thôn mà vẫn đạt hiệu quả.