Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư số 18/2024/TT-NHNN quy định về hoạt động thẻ ngân hàng, thay thế Thông tư số 19/2016/TT-NHNN và các văn bản sửa đổi, bổ sung Thông tư số 19/2016/TT-NHNN.
Theo Thông tư 18/2024, đối với chủ thẻ chính, người đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước. Ngoài ra, người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước.
Trong trường hợp chủ thẻ chính là tổ chức, tổ chức đủ điều kiện mở tài khoản thanh toán được sử dụng thẻ ghi nợ. Theo đó, tổ chức phải là pháp nhân được thành lập và hoạt động hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam được sử dụng thẻ tín dụng, thẻ trả trước định danh.
Còn đối với chủ thẻ phụ, người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật /hoặc người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng, thẻ trả trước.
Đáng chú ý, theo thông tư mới, người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 15 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự được người đại diện theo pháp luật của người đó (chủ thẻ chính) đồng ý bằng văn bản về việc sử dụng thẻ sẽ được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ trả trước.
Như vậy, trẻ em từ đủ 6 tuổi - 15 tuổi không bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ được sử dụng thẻ ghi nợ, thẻ trả trước dưới sự giám hộ của người đại diện theo pháp luật.
Ngoài ra, trường hợp đối tượng được sử dụng thẻ quy định là người nước ngoài thì phải có thời hạn cư trú tại Việt Nam từ 12 tháng (360 ngày) trở lên kể từ thời điểm đề nghị phát hành thẻ. Thời hạn hiệu lực thẻ không vượt quá thời hạn cư trú còn lại tại Việt Nam
Lưu ý thêm, chủ thẻ phải cung cấp đầy đủ, chính xác, kịp thời các thông tin, tài liệu, dữ liệu cần thiết theo yêu cầu của tổ chức phát hành thẻ (TCPHT) nhằm xác minh, nhận biết khách hàng trước khi giao kết hợp đồng phát hành và sử dụng thẻ và trong quá trình sử dụng thẻ, chủ thẻ phải chịu trách nhiệm về tính trung thực của các thông tin, tài liệu, dữ liệu mà mình cung cấp.
Theo thông tư 18/2024, TCPHT thỏa thuận với chủ thẻ về hạn mức thanh toán, hạn mức chuyển khoản, hạn mức rút tiền mặt và các hạn mức khác trong việc sử dụng thẻ đối với chủ thẻ phù hợp với quy định tại Thông tư này, quy định của pháp luật hiện hành về quản lý ngoại hối và quy định pháp luật có liên quan.
Đối với hạn mức rút ngoại tệ tiền mặt tại nước ngoài, một thẻ được rút số ngoại tệ tiền mặt tối đa tương đương 30 triệu đồng Việt Nam trong một ngày.
Đối với thẻ tín dụng, tổng hạn mức rút tiền mặt tính theo BIN của thẻ tín dụng tối đa là 100 triệu đồng Việt Nam trong 1 tháng.
Đối với thẻ trả trước, TCPHT quy định cụ thể hạn mức số dư, hạn mức nạp thêm tiền vào thẻ và hạn mức giao dịch; đảm bảo số dư tại mọi thời điểm trên một thẻ trả trước vô danh không được quá 5 triệu đồng Việt Nam. Bên cạnh đó, tổng hạn mức giao dịch (gồm các giao dịch: rút tiền mặt, chuyển khoản, thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ) trên một thẻ trả trước định danh không được quá 100 triệu đồng/tháng. Quy định này áp dụng kể từ ngày 1/1/2025