Bộ Công Thương vừa tiếp tục có tờ trình 7194/TTr-BCT về Quy hoạch điện VIII, thay thế tờ trình số 5709/TTr-BCT ngày 23/9/2022 và tờ trình số 6328/TTr-BCT ngày 13/10/2022. Tờ trình này nhấn mạnh quan điểm xây dựng Quy hoạch điện VIII là đẩy mạnh phát triển các nguồn điện năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời ...) với giá thành hợp lý gắn với bảo đảm an toàn vận hành và tính kinh tế chung của hệ thống điện. Ưu tiên phát triển các nguồn năng lượng tái tạo để tiêu thụ tại chỗ, không đấu nối hoặc không bán điện vào lưới điện quốc gia.
Phát triển nguồn điện sử dụng LNG ở quy mô phù hợp để giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, sử dụng công nghệ hiện đại, hiệu suất cao. Không phát triển nguồn điện sử dụng LNG mới sau năm 2035. Các nhà máy điện sử dụng LNG định hướng chuyển dần sang sử dụng nhiên liệu hydro sau 10 năm vận hành. Đến năm 2050, đa số các nhà máy nhiệt điện khí chuyển hoàn toàn sang sử dụng hydro.
Tại tờ trình 6328 ngày 13/10, báo cáo về điện than, Bộ Công Thương cho biết, có 5 dự án/6.800 MW đang chuẩn bị đầu tư nhưng có khó khăn trong triển khai và thu xếp vốn. Do đó, trong tính toán quy hoạch lần này, Bộ Công Thương không đưa 6.800 MW các dự án này vào cân đối và bù bằng các nguồn khác, chủ yếu là điện gió, sinh khối.
Đến tờ trình lần này, Bộ Công Thương đề xuất loại bỏ 600 MW điện than khỏi quy hoạch do dự án Công Thanh đủ điều kiện chính thức loại bỏ; 4 dự án còn lại (tổng công suất 6.200 MW) đều là các dự án BOT đã được giao cho các chủ đầu tư nước ngoài, dù khó khăn trong vay vốn, tìm cổ đông thay thế nhưng chưa thể loại bỏ khỏi quy hoạch vì rủi ro pháp lý. Vì vậy, đề xuất để trong quy hoạch nhưng để đảm bảo chủ động cần tính toán phương án để ứng phó với trường hợp 6.200 MW nhiệt điện than này không thể triển khai trên thực tế, bù bằng các nguồn điện khác, đặc biệt là gió, sinh khối.
Về nguồn điện khí LNG nhập khẩu, so với phương án tại tờ trình số 6328 ngày 13/10, tờ trình lần này bổ sung thêm 600 MW (chuyển dự án Công Thanh là điện than thành điện khí LNG). Như vậy, Quy hoạch điện VIII sẽ bổ sung thêm 6.600 MW điện khí LNG (5 dự án), cho đến năm 2030 tổng nguồn điện khí trong quy hoạch là 24.500 MW.
Bỏ 15 dự án/phần dự án điện mặt trời ra khỏi Quy hoạch
Về các dự án điện mặt trời, Bộ Công Thương cho biết, tiếp thu ý kiến của Thanh tra Chính phủ, trên cơ sở rà soát thật kỹ các dự án/phần dự án, để tránh lãng phí đầu tư xã hội, đề xuất Thủ tướng Chính phủ cho phép tiếp tục triển khai và đưa vào vận hành thương mại trước năm 2030 đối với 11 dự án/phần dự án dưới đây:
- 6 phần dự án/phần dự án đã hoàn thành, đang chờ giá bán điện mới gồm: Phù Mỹ 1, Phù Mỹ 3; Dự án ĐMT tại xã Phước Minh, huyện Thuận Nam; Thiên Tân 1.2, Thiên Tân 1.3 và Thiên Tân 1.4. Tổng công suất 452,62 MW.
- 5 phần dự án ddax có nhà đầu tư, đã đầu tư xây dựng đang thi công; các dự án/phần dự án đã được thẩm định Thiết kế cơ sở, đã có Quyết định thu hồi đất/Hợp đồng cho thuê đất/Quyết định giao đất, Hợp đồng mua bán thiết bị, Hợp đồng mua bán điện, bao gồm: Ngọc Lặc, Krông Pa, Phước Thái 2, Phước Thái 3, Đức Huệ 2. Tổng công suất 273,4 MW.
Tổng cộng 11 dự án/phần dự án có tổng công suất 726,02 MW.
Còn lại 12 dự án/phần dự án đã có chủ trương đầu tư và chấp thuận chủ trương đầu tư nhưng đang trong giai đoạn lập Báo cáo nghiên cứu khả thi, đang làm các thủ tục chuẩn bị đầu tư, chưa có Quyết định thu hồi đất/Hợp đồng thuê đất/Quyết định giao đất (MT1, MT2, Phú Thiện, Trang Đức, KN Ialy Gia Lai, KN Srêpôk, KN Ialy Kon Tum, Đức An, Sơn Quang, Thanh Hoá 1, Chư Ngọc giai đoạn 2, Dầu Tiếng 5 - tổng công suất 1.634,4 MW) đề xuất không đưa vào giai đoạn 2021 - 2030 mà xem xét sau năm 2030 với điều kiện đảm bảo được hệ thống truyền tải, cơ cấu nguồn điện vùng, miền, nhu cầu phát triển của nền kinh tế.
3 dự án/phần dự án/phần dự án mà chủ đầu tư thông báo không tiếp tục thực hiện (Mai Sơn, phần còn lại dự án KCN Châu Đức, phần còn lại dự án Thiên Tân 1.3), tổng công suất 60 MW thì loại bỏ khỏi Quy hoạch.
Trước đó, tại tờ trình 6328 ngày 13/10/2022, Bộ Công Thương vẫn đề xuất về nguyên tắc cho phép tiếp tục triển khai các dự án điện mặt trời đã được chấp thuận nhà đầu tư đến năm 2030 với tổng công suất 2.360,42 MW (có nghĩa là gồm cả 23 dự án nêu trên, đã trừ 3 dự án chủ đầu tư chủ động không tiếp tục thực hiện).
Theo đó, trong tính toán quy hoạch phát triển nguồn điện, Bộ Công Thương đề xuất:
Đến năm 2030: Tổng công suất các nhà máy điện khoảng 121.757 - 145.989 MW (kịch bản phụ tải cơ sở - kịch bản cao phụ vụ điều hành) (không bao gồm điện măt trời mái nhà, nguồn cấp phụ tải riêng và đồng phát), trong đó: Thuỷ điện 27.353 - 28.946 MW (tỷ lệ 19,8 - 22,5%); nhiệt điện than 30.127 - 36.327 MW (20,6 - 29,8%); nhiệt điện khí trong nước và LNG 30.330 - 39.430 MW (24,9 - 27%); năng lượng tái tạo ngoài thuỷ điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối,.. ) 21.871 - 39.486 MW (18 - 27%), trong đó điện gió trên bờ đạt 11.905 - 21.480 MW (9,8 - 14,7%), điện gió ngoài khơi 7.000 MW (4,8%), điện mặt trời là 8.736 MW (7,2 - 6%); nhập khẩu điện 4.076 - 5.000 MW (3,3 - 3,4%).
Định hướng đến năm 2050: Tổng công suất các nhà máy điện khoảng 368.461 - 501.608 MW (kịch bản phụ tải cơ sở - kịch bản cao phụ vụ điều hành) (không bao gồm điện măt trời mái nhà, nguồn cấp phụ tải riêng và đồng phát), trong đó: Thuỷ điện chiếm tỷ lệ 7,2 - 9,7%; nhiệt điện than 0 MW; nhiệt điện sử dụng sinh khối/ amoniac chiếm tỷ lệ 5,1 - 7,8%; nhiệt điện khí trong nước từ 1,6 - 2,1%; nhiệt điện LNG chuyển chạy hoàn toàn bằng hydro chiếm tỷ lệ 4,2 - 4,9%; năng lượng tái tạo ngoài thuỷ điện (điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối,..) chiếm tỷ lệ từ 54,9 - 58,9%, trong đó điện gió trên bờ tăng lên 13,3 - 13,2%, điện gió ngoài khơi 12,5 - 17,3%, điện mặt trời chiếm 27,3 - 27,2%; nhập khẩu điện (2,2 - 3%).
Trong tờ trình mới, tổng công suất các nhà máy điện ở kịch bản cơ sở năm 2030 và năm 2050 đã được điều chỉnh giảm lần lượt hơn 1.925 MW và 6.900 MW.
Tờ trình này thay thế Tờ trình số 5709/TTr-BCT ngày 23/9/2022, Tờ trình số 6328/TTr-BCT ngày 13/10/2022 của Bộ Công Thương.