John Bollinger (sinh ngày 27 tháng 5 năm 1950) tại tiểu bang Vermont. Ông là một nhà đầu tư tỷ phú – đồng thời cũng là người sáng lập và chủ tịch của Bollinger Capital Management – quỹ đầu tư nổi tiếng tại nước Mỹ. Quỹ của ông chuyên cung cấp các dịch vụ quản lý các khoản đầu tư và tài sản cá nhân.
Tuổi thơ của ông sinh ra trong một gia đình thuộc tầng lớp khó khăn. Trong hồi kí tuổi thơ mình, ông đã nhiều lần nhớ lại những bữa cơm thiếu thốn bữa đói bữa no của gia đình mình nên ngay từ lúc còn nhỏ, John Bollinger đã có ước mơ học hành thành đạt và thoát nghèo. Nỗ lực học tập của cậu học sinh nghèo đã được đền đáp khi chưa đến 30 tuổi, ông đã đạt được cả 2 tấm bằng danh giá trong giới đầu tư là CFA (Chartered Financial Analyst ) và CMT (Chartered Market Technician). Ghi danh là người đầu tiên trên thế giới nhận được cả 2 tấm bằng danh giá trong giới đầu tư thế hệ lúc bấy giờ.
Thời bấy giờ, việc nhận được cùng lúc 2 tấm bằng đã gây nên sự chú ý và là một hiện tượng, cơn sốt trên phố Wall. Hầu hết mọi nhà đầu tư đều nghĩ rằng phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật thường hay xung khắc, ít có điểm chung cũng như luôn xảy ra mâu thuẫn giữa 2 trường phái này. Và hầu như hiếm có một nhà đầu tư nào trên thế giới chịu bỏ nhiều thời gian, công sức ra để học hỏi kiến thức của cả hai lĩnh vực này một cách bài bản.
Sau khi dành được 2 tấm bằng danh giá, ông đã dành phần lớn thời gian trong 3 năm tiếp theo để nghiên cứu và sáng tạo ra dải Bollinger Bands - một trong những công cụ phân tích kỹ thuật phổ biến và nổi tiếng nhất được ứng dụng chủ yếu trong phân tích kĩ thuật cho tới tận thời nay.
Những năm tiếp theo sau đó, ông áp dụng những kiến thức được học hành bải bản và qua nghiên cứu thực nghiệm vào cách quản lí và vận hành các quỹ đầu tư. Quỹ của ông chủ yếu đầu tư cổ phiếu thời gian đầu tiên khi đi vào hoạt động. Chiến lược mà ông đề ra cho quỹ là tập trung đầu tư vào các tài sản có giá trị đồng thời với việc chọn lọc danh mục đầu tư theo lĩnh vực dựa trên một phân tích căn bản cả ngắn hạn và dài hạn. Ông sử dụng cách tiếp cận từ dưới lên để xây dựng danh mục đầu tư của mình.
Quỹ do ông sáng lập và đứng đầu, nhờ cách thức nghiên cứu cẩn thận trong đầu tư này mà các khách hàng chịu khó nghe những lời tư vấn từ ông đã từng đạt tỷ lệ sinh lới gấp ba lần chỉ số S&P 500, bất chấp cả những giai đoạn của khó khăn nhất của thị trường chứng khoán Mỹ.
Ông cũng chia sẻ phong cách đầu tư của ông chủ yếu tập trung vào nhóm cổ phiếu Large và Mid Cap tiềm năng. Trong suốt giai đoạn ông trực tiếp điều hành, quỹ của ông luôn đạt tỉ suất sinh lời 35% mỗi năm.
Giờ đây, khi đã ở tuổi ngũ tuần, ngoài công việc đầu tư yêu thích ông còn dành phần lớn thời gian hơn cho gia đình của mình và đón những đứa cháu mỗi ngày tới trường.
Bí quyết có được những thành công như hiện nay, ông đã chia sẻ các nguyên tắc đầu tư của bản thân trong một bài phỏng vấn với tạp chí Blomberg chỉ gói gọn trong những điều cơ bản dưới đây:
Vận dụng đồng thời cả phân tích cơ bản và phân tích kĩ thuật trong đầu tư
Bollinger cho rằng nhiều nhà đầu tư luôn có quan niệm sai lầm rằng phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật là hai trường phái đối nghịch với nhau. Điều này dẫn đến một hệ quả khá nguy hiểm là những người này sẽ nghĩ rằng chỉ được chọn một trong hai.
Sự thực thì phân tích cơ bản và phân tích kỹ thuật đóng những vai trò khác nhau trong quá trình ra quyết định đầu tư. Phân tích cơ bản giúp nhà đầu tư chọn được những cổ phiếu tốt nhờ nhìn vào bức tranh tổng thể doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu mua sai thời điểm thì nhà đầu tư vẫn có thể bị lỗ nặng. Phân tích kỹ thuật sẽ giúp chọn thời điểm thích hợp để bắt đầu mua vào với mức giá hợp lí.
Sử dụng dải Bollinger Bands - Một trong những công cụ phân tích kỹ thuật phổ biến nhất vào cách chọn lọc cổ phiếu
Bollinger Bands là công cụ kết hợp giữa đường trung bình động (Moving Average) và độ lệch chuẩn. Có thể hiểu đơn giản chỉ báo này là một đường trung bình 20 kỳ với hai biên được tính là độ lệch chuẩn của những điểm di động tạo thành đường trung bình đó.
Khi giá chứng khoán thay đổi thì giá trung bình cũng thay đổi theo. Nếu giá gần biên trên, nó được định nghĩa là một đỉnh tương đối. Ngược lại, nếu giá gần biên dưới, nó là đáy tương đối. Ngoài ra đường MA 20 (biên giữa) còn là kháng cự , hỗ trợ vùng pullback rất tốt cho giá.
Cấu thành của chỉ báo gồm:
Đường trung bình (Moving Average): mặc định SMA 20 ngày
Dải trên (Upper Band): dải trên thường được tính bằng cách lấy đường trung bình cộng 2 lần độ lệch chuẩn. Dải này có vị trí nằm trên đường trung bình 20 ngày.
Dải dưới (Lower Band): dải dưới thường được tính bằng cách lấy đường trung bình trừ 2 lần độ lệch chuẩn. Dải này có vị trí nằm dưới đường trung bình 20 ngày.
Ứng dụng lớn nhất của Bollinger Bands là hiện tượng "thắt nút cổ chai". Hiện tượng này đem lại hiệu quả đáng kể đối với người sử dụng.
Khi Upper Band và Lower Band co thắt lại thì đó là dấu hiệu cảnh báo sắp có một sự biến động giá mạnh trong tương lai gần. Tùy vào vị trí của giá so với đường middle (moving average) mà nhà đầu tư có thể dự đoán hướng biến động trong tương lai nếu giá bám vào 1 trong 2 dải này.
Ứng dụng vào cổ phiếu VNM trên thị trường Việt Nam
Coi đầu tư là một việc nghiêm túc
Có đến 95% nhà đầu tư luôn luôn mua cổ phiếu ở mức giá cao nhất. Lý do đơn giản bởi họ không biết chọn thời điểm nào để mua mà chỉ mua dựa trện tin báo hay những tin đồn được "rò rỉ". Chỉ có 5% nhà đầu tư biết cách chọn lúc mua ở giá thấp. Vì vậy, có đến 95% người bị lỗ và chỉ có 5% người kiếm được lợi nhuận. Đầu tư đúng thì làm giàu, đầu tư kiểu đánh bạc chắc chắn sẽ bị cháy túi.
Ông tin tưởng rằng con đường dẫn tới thành công đích thực trên thị trường chứng khoán đó là không ngừng học hỏi, cống hiến toàn bộ thời gian và tâm trí cho công việc này bởi đây là một môi trường đầy những thách thức to lớn. Ông coi việc giao dịch cổ phiếu khó ngang với việc cố gắng trở thành một bác sĩ hoặc luật sư giỏi. Đơn giản là bạn phải dành toàn bộ thời gian của mình để theo đuổi nghề nghiệp mình đã lựa chọn. Giao dịch trên thị trường cũng giống như làm việc trong những nghề cao quý khác yêu cầu bạn phải thận trọng cao độ.