Theo báo cáo, đến ngày 30 /9 /2018, có 63/63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã hoàn thiện hồ sơ về nội dung trên.
Hiện nay, Chính phủ đã phê duyệt được 55/63 tỉnh/thành phố, còn 8 tỉnh, thành phốđang rà soát lại việc chuyển mục đích đất rừng sang mục đích phi nông nghiệp theo chỉ đạo của Thủ tướng.
Về từng chỉ tiêu, Chính phủ cho biết đến ngày 31/12/2017, nhóm đất nông nghiệp của cả nước là 27.180,66 nghìn ha, cao hơn 282,52 nghìn ha so với chỉ tiêu Quốc hội duyệt (26.898,14 nghìn ha).
Trong đó, đất trồng lúa có 4.047,92 nghìn ha, cao hơn 1.429,79 nghìn ha so với chỉ tiêu Quốc hội duyệt (3.918,13 nghìn ha). Như vậy, việc giảm diện tích đất trồng lúa sang mục đích phi nông nghiệp vẫn nằm trong giới hạn Quốc hội cho phép. So với năm 2015, diện tích đất trồng lúa tăng 17,17 nghìn ha, báo cáo nêu rõ.
Đất rừng phòng hộ năm 2017 có 5.243,08 nghìn ha, cao hơn 35,06 nghìn ha so với chỉ tiêu (5.208,02 nghìn ha), giảm 405,91 nghìn ha so với năm 2015. Trong đó, diện tích đất có rừng phòng hộ là 4.567 ha nghìn ha.
Về chỉ tiêu sử dụng đất phi nông nghiệp, Chính phủ cho biết nhóm đất phi nông nghiệp của cả nước là 4.014,49 nghìn ha, thấp hơn 349,10 nghìn ha so với chỉ tiêu (4.363,59 nghìn ha).
Trong đó đất quốc phòng năm 2017 có 271,59 nghìn ha, thấp hơn 18,49 nghìn ha so với chỉ tiêu (290,08 nghìn ha), tăng 19,07 nghìn ha so với năm 2015.
Đất an ninh năm 2017 có 57,29 nghìn ha, thấp hơn 5,29 nghìn ha so với chỉ tiêu (62,58 nghìn ha), tăng 0,71 nghìn ha so với năm 2015
Đất khu công nghiệp năm 2017 có 108,49 nghìn ha, thấp hơn 33,12 nghìn ha so với chỉ tiêu (141,61 nghìn ha), tăng 5,17 nghìn ha so với năm 2015.
Đất ở tại đô thị năm 2017 cả nước có 171,05 nghìn ha, thấp hơn 13,47 nghìn ha so với chỉ tiêu (184,52 nghìn ha). Một số địa phương có diện tích đất ở tại đô thị lớn như: Tp.HCM 21.765 ha, Hà Nội 11.407 ha, Bình Dương 9.306 ha, Đà Nẵng 5.365 ha, Cần Thơ 4.755 ha, Hải Phòng 4.692 ha, Gia Lai 4.428 ha, Thừa Thiên Huế 4.063 ha.
Chính phủ đánh giá, nhóm đất nông nghiệp có diện tích cao hơn thì diện tích nhóm đất phi nông nghiệp thấp hơn so với chỉ tiêu đã được Quốc hội quyết định là phù hợp.
Tình hình trên theo Chính phủ thì có nhiều nguyên nhân. Thuộc về nguyên nhân khách quan là tình hình kinh tế - xã hội những năm qua nói chung và của từng địa phương nói riêng gặp nhiều khó khăn đã tác động đến lớn đến việc thực hiện quy hoạch và thu hút đầu tư để thực hiện các công trình, dự án. Vốn đầu tư công giảm, các nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước giảm, nhiều công trình, dự án phải tạm dừng, đình hoãn hoặc giãn tiến độ thực hiện, đặc biệt là các dự án hạ tầng, như: văn hóa, y tế, giáo dục - đào tạo, thể dục - thể thao; một số dự án, công trình có trong quy hoạch nhưng không có nhà đầu tư thực hiện hoặc có nhà đầu tư, nhưng thực hiện chậm do khó khăn về tài chính.
Nguyên nhân nữa là quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phụ thuộc vào phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và Trung ương, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp. Một số dự án, công trình cấp quốc gia sử dụng vốn từ ngân sách Trung ương chưa triển khai hoặc triển khai chưa đúng tiến độ như Sân bay quốc tế Long Thành, một số tuyến đường cao tốc, đường vành đai vùng kinh tế trọng điểm, tổng kho trung chuyển miền Đông (tỉnh Đồng Nai), các trường đại học,... nên ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
Đánh giá nguyên nhân chủ quan, Chính phủ cho rằng thiếu các giải pháp có tính khả thi để thực hiện quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt là không cân đối đủ nguồn vốn đầu tư do nhu cầu vốn đầu tư các công trình hạ tầng kỹ thuật là rất lớn trong khi ngân sách của các địa phương có hạn. Công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất mất nhiều thời gian nên ảnh hưởng nhiều đến tiến độ thực hiện dự án đã được phê duyệt trong quy hoạch.
Đánh giá chung, Chính phủ cho rằng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai góp phần làm tăng giá trị của đất, đưa đất đai trở thành nguồn lực quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nguồn thu từ đất (tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp) cho ngân sách đã tăng đáng kể qua các năm.
Cụ thể: năm 2013 là 54.434 tỷ đồng, 2014 là 55.138 tỷ đồng, 2015 là 84.810 tỷ đồng, 2016 là 115.290 tỷ đồng, năm 2017 là 104.400 tỷ đồng và 4 tháng đầu năm 2018 là 32.200 tỷ đồng, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền lợi của người sử dụng đất, quyền lợi của Nhà nước, chủ đầu tư và đảm bảo ổn định xã hội; đồng thời phù hợp với quá trình thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
: