Theo ấn phẩm Động thái và thực trạng kinh tế – xã hội Việt Nam 5 năm 2016-2020, trong lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng, ngành y tế và chăm sóc sức khỏe cộng đồng trong những năm qua đã nỗ lực, cố gắng trong công tác phòng, chống dịch bệnh bảo vệ sức khỏe của người dân.
Điểm nhấn chính là năm 2020, Việt Nam đã đạt những kết quả khả quan trong công tác phòng chống dịch Covid-19, ngay cả trong bối cảnh là nước có thu nhập trung bình thấp, đầu tư cho y tế còn hạn chế.
Hiện nay, Việt Nam đã hình thành 3 trung tâm y tế chuyên sâu và đang thực hiện đầu tư xây dựng mới 5 bệnh viện tuyến cuối tại Hà Nội và TP. HCM. Số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt 28 giường vào năm 2020, vượt mục tiêu đề ra (26,5 giường). Đã xây dựng Chương trình phát triển y học cổ truyền, kết hợp y dược cổ truyền với y học hiện đại.
Tại thời điểm 31/12/2018, cả nước có 13.547 cơ sở y tế do Nhà nước quản lý, trong đó có 1.354 bệnh viện, 308 phòng khám đa khoa khu vực và 11.815 trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp. Năm 2019 có 96,2 nghìn bác sĩ; số bác sĩ trên một vạn dân là 8,8 bác sĩ; tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 89,3%, vượt 1,2% so với mục tiêu của Thủ tướng Chính phủ giao trong Quyết định số 1167/QĐ-TTg ngày 28/6/2016 của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh giao chỉ tiêu thực hiện bảo hiểm y tế giai đoạn 2016-2020.
(*) Số liệu từ năm 2016-2018 không bao gồm số giường bệnh thuộc cơ sở tư nhân. Số liệu năm 2019 không bao gồm số giường bệnh thuộc tuyến Trung ương quản lý.
(***)Số liệu năm 2019 không bao gồm số bác sĩ thuộc tuyến Trung ương quản lý
Giai đoạn 2016-2020, công tác y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được tăng cường, chất lượng dân số từng bước được cải thiện, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng cao, hệ thống y tế tuyến cơ sở đã được kiện toàn, củng cố đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân và từng bước giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên.
Mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển. Năm 2016 cả nước có 13.591 cơ sở y tế do Nhà nước quản lý, trong đó có 1.077 bệnh viện, 609 phòng khám đa khoa khu vực và 11.812 trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp.
Năm 2018, cả nước có 13.547 cơ sở y tế do Nhà nước quản lý, trong đó có 1.354 bệnh viện, 308 phòng khám đa khoa khu vực và 11.815 trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp nhằm đáp ứng nhu cầu đặt ra cho hệ thống y tế Việt Nam là nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, cải tiến môi trường bệnh viện; đổi mới cơ chế tài chính; phát triển công tác khám chữa bệnh, đặc biệt là y tế dự phòng.
Năm 2019, số giường bệnh là 323,8 nghìn giường (không bao gồm số giường bệnh thuộc tuyến trung ương quản lý). Số giường bệnh (không tính giường bệnh tại các trạm y tế xã, phường, cơ quan, xí nghiệp) bình quân 1 vạn dân năm 2019 là 28,5 giường bệnh, cao hơn mức bình quân 27 giường bệnh của năm 2016.
Ngành Y tế đã có nhiều nỗ lực để phát triển nhân lực y tế, năm 2019 đã có khoảng 90% trạm y tế xã có bác sĩ làm việc, 95% trạm y tế xã có y sĩ sản nhi hoặc nữ hộ sinh, 99,7% xã có cơ sở trạm, 99% thôn, bản, ấp có nhân viên y tế hoạt động, 76% xã đạt tiêu chí quốc gia về y tế xã.
Tuy nhiên, báo cáo nhấn mạnh, trong bối cảnh nhu cầu khám chữa bệnh tăng nhanh như hiện nay không tránh khỏi tình trạng thiếu hụt nhân lực y tế về cả số lượng và chất lượng. Số bác sĩ trên cả nước năm 2019 là 96,2 nghìn người (không bao gồm số bác sĩ thuộc tuyến Trung ương quản lý), tăng 17,3% so với năm 2018 và tăng 24,1% so với năm 2016, số bác sĩ bình quân trên 1 vạn dân là 8,8 người, đạt kế hoạch đặt ra cho giai đoạn 2016-2020.
Theo dữ liệu của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), năm 2019, số bác sĩ bình quân trên 1 vạn dân của Úc là 38 người, Pháp là 34 người, Mỹ là 26 và Trung Quốc là 22.
Nhìn chung, chất lượng y tế tại Việt Nam được nâng cao, nhưng còn nhiều bất cập như số lượng và chất lượng nhân lực y tế phân bổ không đồng đều giữa các vùng, các tuyến, giữa khám chữa bệnh và y tế dự phòng.
Tỷ lệ điều dưỡng/bác sĩ thấp hơn nhiều so với mức trung bình trên thế giới, không đảm bảo chăm sóc người bệnh toàn diện. Nhân lực ngành dược chưa đáp ứng đủ nhu cầu về số lượng và chất lượng, kiểm định chất lượng chưa chặt chẽ, cấp phép hành nghề còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.