Nhiều sử gia phương Tây cho rằng, Việt Minh thành công trong cuộc Cách mạng tháng Tám do có sự tồn tại khoảng trống quyền lực ở Việt Nam.
Lực lượng chủ động
Một bài viết trên báo Quân đội Nhân dân bình luận: "Khi Nhật Bản đã chuẩn bị đầu hàng Đồng minh (bao gồm cả Việt Minh), và thực dân Pháp đã bị đế quốc Nhật lật đổ từ cuộc đảo chính tháng 3/1945, còn Chính phủ Bảo Đại thực chất là một chính phủ phụ thuộc hoàn toàn vào Nhật Bản, nên ở Việt Nam lúc này rơi vào tình trạng vô chính phủ".
Trên thực tế, trong luận án tiến sĩ của mình, xuất bản tại Oslo năm 1991 The Vietnamese Revolution of 1945 – Roosevelt, Ho Chi Minh and de Gaulle in a World at War, nhà sử học người Na Uy Stein Tonnesson đã nhận định rằng Việt Minh đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cho tình thế này, thậm chí chính Việt Minh mới là người tạo ra khoảng trống quyền lực, chủ động tiến hành kháng chiến chống Nhật và vô hiệu hóa các lực lượng của Pháp.
Tháng 8/1945, tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Từ 13-15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan để cuộc tổng khởi nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi, quyết định của Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát xít Nhật trước khi quân đồng minh vào Đông Dương.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập", theo Hồi ký của Đại tướng Võ Nguyên Giáp – Lời Bác Hồ nói với Đại tướng (2011).
Ngày 2/9/1945, Hồ Chủ Tịch đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam.
Hưởng ứng lệnh Tổng khởi nghĩa của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi đồng bào cả nước: "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến, toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy, đem sức ta mà giải phóng cho ta!". Lệnh Tổng khởi nghĩa cùng lời kêu gọi của Bác Hồ như "Hịch non sông" thúc giục lòng dân ra trận.
Ngày 19/8, trong khi Hồng quân Liên Xô đánh tan đạo quân Quan Đông và làm chủ Mãn Châu thì tại Hà Nội cuộc Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Chỉ từ 14-28/8/1945, Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã thắng lợi hoàn toàn, chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và chế độ phong kiến, chính quyền toàn quốc về tay nhân dân. Đây là cuộc khởi nghĩa sáng tạo tầm cỡ thời đại, vận dụng quy luật vận động phát triển của khởi nghĩa cách mạng và nghệ thuật chỉ đạo chớp thời cơ của Đảng và Bác Hồ.
Biến thuận lợi bên ngoài thành sức mạnh Việt Nam
Việc chọn đúng thời cơ Tổng khởi nghĩa cho thấy Đảng bao giờ cũng đặt Cách mạng Việt Nam nằm trong tình hình chung của thế giới, biến thuận lợi thế giới thành sức mạnh trong nước. Đúng như lời Tổng Bí thư Trường Chinh đã nói: "Mau lẹ, kịp thời nổ ra đúng lúc phải nổ - đó là một trong những ưu điểm nổi bật của Cách mạng Tháng Tám".
Giờ đây, trong thời đại công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hóa (HĐH) và hội nhập quốc tế, với những điều kiện chủ quan và khách quan mới đang tạo ra thời cơ mới, nghị quyết Đại hội Đảng lần XII khẳng định: "Cách mạng nước ta đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới thuận lợi chưa từng có, đồng thời cũng đang gặp những khó khăn, thách thức lớn". Thuận lợi là vì uy tín và vị thế của nước Việt Nam không ngừng được nâng cao.
Tới nay, chúng ta đã có quan hệ thương mại với 230 tổ chức quốc tế, quốc gia và vùng lãnh thổ; thiết lập quan hệ ngoại giao với 188 nước; chúng ta đã có 94 cơ quan đại diện tại các vùng lãnh thổ khắp 5 châu lục trên thế giới; là ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2008 – 2009 và là Chủ tịch ASEAN năm 2010, chúng ta vừa tổ chức thành công APEC 2017 và chuẩn bị ứng cử ủy viên không thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020 – 2021 và đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020...
Thế và lực của Việt Nam ngày càng vững mạnh, đang đứng trước thời cơ rất lớn trong công cuộc phát triển đất nước. Thành quả này có được là nhờ Đảng đã vận dụng sáng tạo bài học nhìn nhận thời cơ giành thắng lợi trong cách mạng tháng tám năm 1945 của Chủ tịch Hồ Chí Minh và củng cố niềm tin rằng chúng ta sẽ vượt qua mọi thách thức, khó khăn để vững bước tiến lên trên con đường đổi mới.
Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 2/9/1945, khi mà trên chiến hạm Missouri đang bỏ neo trong vịnh Tokyo, Nhật Bản chính thức ký các văn kiện chấp nhận đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, thì tại vườn hoa Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH), Nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Điều này càng cho thấy sự lãnh đạo sáng suốt, kịp thời, nhạy bén của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn Độc lập mang tầm thời đại
Vào thời điểm Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập, xứ Đông Dương nói chung và nước Việt Nam nói riêng gần như chưa có tên trên bản đồ chính trị thế giới. Thậm chí, tại hội nghị giữa các nước thắng trận sau Thế chiến II, Tổng thống Pháp lúc bấy giờ De Gaulle đã yêu cầu các nước coi Việt Nam là vấn đề nội bộ của nước Pháp.
Hơn nữa, lúc này, ở Việt Nam có rất nhiều lực lượng can thiệp. Phát xít Nhật đã thua trận, nhưng vẫn chưa bị giải giáp. Trong khi đó dưới danh nghĩa Đồng minh, 20 vạn quân Lư Hán ở phía Bắc đang rục rịch kéo vào, các hạm tàu của Anh, Mỹ ở phía Nam cũng sẵn sàng cập bến. Thực dân Pháp công khai dã tâm quay trở lại một lần nữa. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã ra đời trong bối cảnh ấy.
Đối với Đảng và Bác, trước hết Tuyên ngôn Độc lập phải trực tiếp bảo vệ thành quả đầu tiên, nhưng quan trọng nhất là "vấn đề chính quyền" của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nó không những tạo ra cho Chính phủ Lâm thời vị thế chủ nhà trước khi quân đồng minh kéo vào, mà còn cảnh báo, ngăn ngừa từ xa mọi mưu đồ lợi dụng chiêu bài giải giáp quân Nhật để thủ tiêu các thành quả của cách mạng. Điều đặc biệt, bản Tuyên ngôn Độc lập lại được phát ngôn trước toàn thể thế giới bởi vị Chủ tịch của một quốc gia hoàn toàn mới, do đó tiếng vang của nó lan rộng khắp năm châu.
Từ chiều sâu trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, khát vọng tự do, độc lập đã nhiều lần được tuyên ngôn như một ý chí bất khuất của dân tộc ta. Tuyên ngôn Độc lập vì vậy cũng là lời tuyên chiến với những thế lực đã, đang và sẽ cản trở dân tộc ta hiện thực hóa khát vọng thiêng liêng từ ngàn đời.
Tuyên ngôn Độc lập đã mở ra một thời đại mới, thời đại giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc khỏi ách áp bức của chủ nghĩa thực dân trên phạm vi toàn cầu. Nó đã vượt qua khuôn khổ của một định hướng chính trị đơn thuần để trở thành một văn kiện pháp lý tầm cỡ quốc tế.
Với tầm nhìn xa, trông rộng của một lãnh tụ thiên tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ động dự báo chiến lược trong các quyết sách chính trị trọng đại: Dã tâm quay trở lại xâm lược nước ta của thực dân Pháp đã quá rõ và một thế lực mới nổi nhưng đã bộc lộ rất nhiều tham vọng là Mỹ.
Lịch sử cũng ghi nhận, gần như ngay sau khi đọc Tuyên ngôn Độc lập, chính giới Pháp cũng bắt đầu phân hóa thành hai phe đối lập trong quan điểm về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Bài học này chưa bao giờ cũ trong tiến trình cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đang đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại song phương và đa phương nhằm gìn giữ môi trường hòa bình, ổn định cho công cuộc đổi mới của chúng ta hiện nay, đúng như Nghị quyết của Đại hội Đảng lần XII nêu: "…thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, theo Văn kiện ĐH Đảng lần XII.