Theo thống kê của DataLight vào năm 2019, Việt Nam đứng thứ 8 trên bảng xếp hạng mức độ hoạt động trên thị trường tiền mã hóa với 2,5 triệu hoạt động giao dịch hàng tháng trên các sàn giao dịch toàn cầu.
Thêm nữa, các công ty khởi nghiệp sớm trong lĩnh vực blockchain đã huy động được hơn 150 triệu đô la Mỹ nhờ các đợt chào bán công khai token (tài sản mã hóa hoặc xu điện tử), thay vì đi theo con đường tìm tài trợ vốn mạo hiểm truyền thống.
TS. Nguyễn Thanh Bình, Giảng viên và Quyền chủ nhiệm chương trình Tài chính Đại học RMIT Việt Nam nhận định "dù ở Việt Nam, blockchain nhận được nguồn vốn đầu tư lớn, việc ứng dụng công nghệ này vẫn còn khá ít ỏi".
Theo ông, việc áp dụng blockchain gặp trở ngại do một số vụ gian lận từ việc thiếu khung pháp lý bài bản.
Theo báo cáo năm 2019 của Asia Blockchain Review, các nhà đầu tư Việt Nam mất hơn 700 triệu đô la Mỹ do tiếp thị đa cấp lừa đảo dựa trên Bitcoin.
Tiến sĩ Bình cho biết Việt Nam đang thật sự rất cần một khung pháp lý có khả năng thúc đẩy việc ứng dụng và đổi mới các sản phẩm blockchain, đồng thời bảo vệ người tiêu dùng và nhà đầu tư khỏi các hành vi gian lận.
Tiến sĩ Bình ủng hộ việc sử dụng sandbox (cơ chế khung pháp lý thí điểm) cho blockchain như một sân chơi để thử nghiệm trên quy mô nhỏ với một số nhà cung cấp dịch vụ được tuyển chọn và dưới sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý. Mô hình này đang được đẩy mạnh tại một số nền kinh tế châu Á.
Từ năm 2016, Ngân hàng Trung ương Singapore đã thiết lập khung pháp lý thí điểm sandbox cho các công nghệ tài chính, trong đó có blockchain. Nhà cung cấp dịch vụ thị trường vốn trên nền tảng blockchain iSTOX vừa hoàn tất các yêu cầu của sandbox và trở thành nền tảng hoàn chỉnh được cấp phép đầu tiên tại Singapore được phát hành và giao dịch chứng khoán số hóa.
Chính phủ Nhật Bản cũng triển khai cơ chế sandbox từ tháng 6/2018 để đẩy mạnh các mô hình kinh doanh và công nghệ mới. Một số công ty khởi nghiệp sáng tạo đã và đang tận dụng cơ chế này để khai thác sức mạnh của blockchain.
Còn Ngân hàng Thái Lan thì đưa sandbox vào thử nghiệm ứng dụng blockchain vào thư bảo lãnh và giao dịch chuyển khoản liên quốc gia từ cuối năm 2017.
Nhìn chung, các doanh nghiệp tham gia sandbox có thể hoạt động với những điều khoản được miễn trừ và những quyền đặc biệt riêng. Sau khi thử nghiệm sandbox thành công và rời khỏi khung pháp lý thí điểm này, doanh nghiệp phải tuân thủ đầy đủ luật và các quy định pháp lý liên quan.
Lợi ích chính từ cơ chế sandbox là các cơ quan quản lý có thể điều chỉnh và định hình khung giám sát một cách nhanh chóng dựa trên những hiểu biết thu được từ đây.
Hiện nay, Việt Nam đang tích cực tìm hiểu việc sử dụng cơ chế sandbox gần đây.
Đầu tháng 1/2020, Nghị quyết số 01 của Chính phủ về việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 đã đặt ra nhiệm vụ ban hành sandbox đối với các công nghệ tài chính trong hoạt động ngân hàng và thanh toán không dùng tiền mặt.
Trước đó, Quyết định số 999 của Thủ tướng ngày 12/8/2019 đã đề xuất thực hiện cơ chế sandbox với các công nghệ mới phục vụ nền kinh tế chia sẻ.
"Điều này cho thấy quyết tâm cao từ phía Chính phủ", Tiến sĩ Nguyễn Thanh Bình cho biết. "Việc cần làm tiếp theo là chuẩn bị tất cả những yếu tố cần thiết để triển khai sandbox".
Nhiệm vụ này bao gồm những công việc như đề ra mục tiêu, phân bổ nguồn lực và xây dựng tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp tham gia sandbox. Không gian, thời gian và quy mô của từng sandbox cũng cần được xác định rõ ràng.
Bên cạnh khung pháp lý thí điểm, Việt Nam còn cần phát triển một hệ sinh thái bài bản để đẩy nhanh việc áp dụng blockchain.
"Công nghệ blockchain mới chỉ hơn 10 năm tuổi, các ứng dụng và sản phẩm mới đang liên tục xuất hiện. Đó là lý do vì sao hệ sinh thái cần được cập nhật thường xuyên", Tiến sĩ Bình nhận định.