Năm 1960, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Ronald H Coase đã đưa ra "vấn đề về tổn thất xã hội". Theo đó, các hoạt động của con người thường có ngoại ứng tiêu cực, vì vậy quyền cá nhân không thể được tuyệt đối hóa mà phải có các thể chế can thiệp. Cuộc khủng hoảng COVID-19 chính là minh chứng sinh động nhất cho điều này. Dù rằng cả thế giới đều phải hứng chịu hậu quả của đại dịch, một số quốc gia đã làm tốt hơn nhiều so với những quốc gia khác.
Trong khi một số nơi, ca nhiễm COVID-19 gần như bằng 0 thì nhiều khu vực có tỷ lệ nhiễm bệnh và tử vong tăng cao trong nhiều tháng. Hơn nữa, không phải ai cũng chịu thiệt hại như nhau. Người lao động thu nhập thấp sẽ có ít cơ hội tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc y tế và thường phải ra ngoài vì tính chất công việc của họ buộc phải vậy, đây chính là thành phần đang phải chịu gánh nặng tồi tệ nhất từ nền kinh tế và cuộc khủng hoảng.
Điều này đặt tất cả mọi người vào rủi ro. Rốt cuộc, ngay cả khi một quốc gia đã từng bị nhiễm COVID-19, quốc gia này sẽ vẫn dễ bị tổn thương, vì vi-rút tiếp tục được xâm nhập từ các quốc gia kiểm soát dịch bệnh kém hơn. Nói cách khác, tổn thất xã hội của thể chế điều hành không tốt ở một số quốc gia đang gây liên luỵ sang những nước có thể chế hoạt động tốt.
Bước đầu tiên để giải quyết vấn đề này là xác định thể chế nào là hiệu quả nhất để giảm tổn thất xã hội của cuộc khủng hoảng COVID-19. Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng, đây không phải là vấn đề của việc có các thể chế mạnh. Hoa Kỳ và Anh đều có thể chế vững mạnh và cả hai đều có nhiều thời gian, thậm chí là vài tháng để chuẩn bị trước khi dịch bùng phát, nhưng cả hai đều có tỷ lệ nhiễm trùng và tử vong cao nhất thế giới.
Ngược lại, các nước Đông Á là những nước bị nhiễm virus đầu tiên, có rất ít thời gian để chuẩn bị, tuy nhiên, nhiều quốc gia trong số đó có số ca nhiễm COVID-19 giảm xuống gần bằng không. Sự khác biệt nằm ở thái độ: vai trò và trách nhiệm của mỗi xã hội đối với chính phủ và mức độ mong đợi cộng đồng hành động như một tập thể hướng đến lợi ích chung.
Mỹ từ lâu đã đề cao quyền tự do cá nhân. "Chính phủ tối thiểu" là một điệp khúc thường được rao giảng, với nhiều ý kiến cho rằng các cá nhân đóng vai trò là những người tham gia tư lợi trên thị trường và trong các quy trình xã hội và chính trị sẽ tạo ra kết quả tích cực. Sự can thiệp của chính phủ - ngay cả trong trường hợp có đại dịch – bị đánh giá là xâm phạm quyền cá nhân của người Mỹ. Các cuộc biểu tình đối với các mệnh lệnh tự cách ly và nhiệm vụ đeo khẩu trang phản ánh rõ ràng quan điểm này.
Điều này rất khác với tư duy cộng đồng ở Đông Á. Ví dụ, nhiều nhà quan sát phương Tây đã cho rằng thành công của Trung Quốc trong việc kiềm chế COVID-19 là do chế độ độc tài của họ, vốn được cho là xâm phạm quyền tự do cá nhân, quyền riêng tư và hiệu quả kinh tế theo cách mà không chính phủ dân chủ nào làm.
Lý thuyết của Coase cho thấy tại sao logic đó lại thiếu sót, ông giải thích, thị trường có thể giảm thiểu ổn thất xã hội nếu tất cả các tác nhân có đầy đủ thông tin và chi phí giao dịch gần như bằng không. Nhưng những điều kiện đó là không thực tế ngay cả trong điều kiện bình thường.
Trong đại dịch, không một cá nhân nào có thể nhận được thông tin toàn diện và mới nhất về vi rút. Trên thực tế, sự tồn tại của những người mang mầm bệnh không triệu chứng đã loại trừ khả năng có "thông tin đầy đủ". Và, bởi vì chi phí giao dịch của việc đeo khẩu trang, cách ly, kiểm tra và truy tìm địa chỉ liên lạc cao, nên việc tuân thủ các lựa chọn của cá nhân sẽ không bao giờ đủ để ngăn chặn vi rút.
Một ví dụ, khi đến Thâm Quyến từ Hồng Kông, một người đến một khách sạn được chỉ định - được trang bị các nhân viên y tế tiến hành kiểm tra và theo dõi nhiệt độ - để kiểm dịch bắt buộc trong 14 ngày. Trên đường đến khách sạn, cả chủ nhà và một người liên lạc với cộng đồng đã liên lạc được với nhau, họ đã được chính quyền thông báo để chuẩn bị cho một người mới từ nước ngoài đến.
Từ sân bay đến khách sạn cách ly về nhà, mọi cá nhân - nhân viên xuất nhập cảnh, tài xế xe buýt, nhân viên kiểm tra an ninh, nhân viên y tế và nhân viên khách sạn - đều mang đầy đủ thiết bị bảo vệ cá nhân (PPE). Các khu vực chung đã được khử trùng thường xuyên. Nhà nước đã cung cấp tất cả các nguồn lực cần thiết.
Tất nhiên, một khách du lịch thích về nhà hơn là ở trong một khách sạn cách ly trong hai tuần. Nhưng việc một cá nhân chấp nhận tuân thủ là điều đúng đắn để đổi lại lợi ích cho toàn xã hội. Vì vậy, với sự hỗ trợ của thể chế và hướng dẫn rõ ràng - được cung cấp qua nhiều kênh, bao gồm cả mạng xã hội - mọi người đã thực hiện các biện pháp phòng ngừa cần thiết. Trách nhiệm thực hiện cũng đã được phân định rõ ràng giữa các cơ quan chính phủ.
Các kết quả - giảm mạnh số ca nhiễm và tử vong do COVID-19 - đã tự nói lên điều đó. Các nước Đông Á khác - chẳng hạn như Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc và Việt Nam - đã đạt được thành công tương tự, sử dụng các cách tiếp cận thể chế rất giống nhau. Trong mọi trường hợp, chính phủ can thiệp sớm, đưa ra các quy tắc và hướng dẫn toàn diện, đồng thời cung cấp các nguồn lực cần thiết để áp dụng các biện pháp liên quan. Và trong mọi trường hợp, xã hội đã chấp nhận sự can thiệp của chính phủ nhằm mục đích thúc đẩy lợi ích chung.
Điều quan trọng là các quốc gia này có nền văn hóa và hệ thống chính trị rất khác nhau. Do đó, những nỗ lực nhằm biến những thể chế phản ứng hiệu quả với đại dịch thành chiến trường chính trị hoặc ý thức hệ tốt nhất là một sai lầm. Bài học ở đây là, bất kể ý thức hệ hay chính trị, mỗi xã hội phải xây dựng các thể chế phù hợp để giảm thiểu tổn thất xã hội.