3 rủi ro tác động đến kinh tế Việt Nam trong năm 2022
Vào ngày 25/4, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân (KTQD) phối hợp cùng Ban Kinh tế Trung ương, Ủy Ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức Hội thảo Khoa học Quốc gia để đánh giá kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022, đồng thời công bố ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam thường niên 2021 của Trường.
Theo đó, chủ đề của Hội thảo cũng như của ấn phẩm nghiên cứu thường niên năm 2022 là "Kinh tế Việt Nam năm 2021 và triển vọng năm 2022: Ổn định kinh tế vĩ mô và lành mạnh tài chính trong bối cảnh đại dịch COVID-19".
Trình bày báo cáo tại Hội nghị, PGS.TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý Khoa học Trường Đại học KTQD, đồng chủ biên ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam cho biết, năm 2021 Việt Nam chứng kiến những khó khăn và thách thức chưa có tiền lệ. Kinh tế thế giới phục hồi nhưng không đồng đều. Ở Việt Nam, tăng trưởng kinh tế năm 2021 suy giảm mạnh ở mức 2,58%, thấp nhất trong vòng hai thập kỷ gần đây, từ mức 2,91% của năm 2020 – năm đầu tiên bị tác động của đại dịch.
"Nguyên nhân chủ yếu từ cú sốc suy thoái nặng nề trong quý III/2021 với sự lan rộng của biến chủng Delta trong khi tỷ lệ tiêm chủng còn rất thấp, đã gần như vô hiệu hoá các nỗ lực ngăn chặn dịch bệnh và truy vết của Chính phủ, vốn đã rất thành công trong năm 2020", ông Thành cho hay.
Sang đến năm 2022, nghiên cứu của trường Đại học KTQD dự báo, triển vọng kinh tế Việt Nam năm 2022 có thể đứng trước nhiều thách thức lớn.
Thứ nhất, đại dịch COVID-19 với chủng mới Delta có tốc độ lây nhiễm mạnh, bất ổn chính trị thế giới leo thang cùng giá dầu tăng mạnh có thể khiến con đường hồi phục toàn cầu và của các nước bạn hàng lớn của Việt Nam như Mỹ, EU, Trung Quốc bị đe dọa; theo đó ảnh hưởng đến thương mại và đầu tư tại Việt Nam.
Thứ hai, việc chính phủ và NHTW của các quốc gia lớn, đặc biệt là Mỹ, có động thái thắt chặt tiền tệ do lo ngại lạm phát, là có tác động đến kinh tế, tài chính thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Đối với Việt Nam, dư địa các chính sách tài khóa và tiền tệ để hỗ trợ hồi phục kinh tế sẽ bị thu hẹp hơn.
Thứ ba, những rủi ro bất ổn vẫn còn hiện hữu như tăng trưởng "nóng" trên thị trường bất động sản và chứng khoán. Cụ thể, dòng vốn tín dụng chưa đi vào khu vực sản xuất và đổ vào thị trường tài sản gây rủi ro tài chính; hệ thống ngân hàng còn nhiều chỉ tiêu chưa lành mạnh như chất lượng tín dụng giảm và nợ xấu gia tăng; sức ép lạm phát gia tăng, ....
"Những rủi ro này có thể tác động ngược trở lại đến khu vực kinh tế thực, ảnh hưởng đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng", ông Thành phân tích.
PGS.TS Tô Trung Thành, Trưởng phòng Quản lý Khoa học Trường Đại học KTQD, đồng chủ biên ấn phẩm Đánh giá Kinh tế Việt Nam trình bày kết quả nghiên cứu tại Hội nghị.
Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2022 vẫn đến từ đầu tàu khu vực kinh tế đối ngoại
Ông Thành dự đoán, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có khả năng cao đạt được mục tiêu 6,5% trong năm 2022, tuy nhiên mục tiêu lạm phát dưới 4% của Chính phủ là khó có khả năng đạt được.
Ông Thành lý giải, xu hướng tăng giá hàng hóa cơ bản và giá xăng dầu....cộng thêm chiến tranh Nga – Ukraine leo thang, đã khiến giá năng lượng tăng cao kỷ lục, theo đó ảnh hưởng lớn đến chi phí sản xuất trong nước, gây sức ép lớn đến lạm phát năm 2022.
Bên cạnh đó, lạm phát toàn cầu đang gia tăng cũng ảnh hưởng đến áp lực lạm phát trong nước. Không những thế, tỷ lệ cung tiền M2/GDP và tín dụng/GDP của Việt Nam đang ở mức rất cao so với các nước trong khu vực, trong khi tăng trưởng kinh tế đang dưới sâu so với mức sản lượng tiềm năng, làm gia tăng rủi ro lạm phát.
Báo cáo đánh giá, diễn biến giá dầu tăng cao trong những tháng đầu năm 2022 đặt ra thêm những thách thức rất lớn đến kinh tế. Cho đến ngày 11/3/2022, trung bình giá xăng dầu tăng 45,2% so năm năm 2021, và nếu theo Dự thảo giảm mức thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu được thực hiện thì giá xăng dầu tăng 41%.
"Nếu giá xăng dầu tăng 45,2%, ảnh hưởng trực tiếp tức thời đến chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 0,6%, chỉ số giá sản xuất (PPI) tăng khoảng 2,34%. Trong trường hợp Dự thảo được thực hiện, giá xăng dầu tăng so với bình quân năm 2021 khoảng 41%, ảnh hưởng trực tiếp đến giá tiêu dùng tăng 0,5%; chỉ số giá sản xuất tăng 2,2%", PGS.TS Tô Trung Thành cho hay.
Với tình hình dịch bệnh mới và được thúc đẩy bởi gói hỗ trợ phục hồi kinh tế mới, tăng trưởng kinh tế Việt Nam có thể đạt được mục tiêu 6,5% như kỳ vọng. Động lực tăng trưởng kinh tế vẫn đến từ đầu tàu khu vực kinh tế đối ngoại, đóng góp lớn đến sản xuất sản phẩm chế biến chế tạo và xuất khẩu.
Bên cạnh đó, bù đắp cho đầu tư khu vực tư nhân còn khó khăn, chưa thể hồi phục nhanh do tác động của đại dịch, đầu tư công được tăng cường sẽ đóng góp lớn vào tăng trưởng của năm 2022. Những chính sách đảm bảo an sinh xã hội và hỗ trợ việc làm được thực hiện giúp tăng các mức chi tiêu, đóng góp lớn vào quy mô nền kinh tế.
Về phía sản xuất, ngành dịch vụ có cơ hội hồi phục mạnh mẽ trong năm 2022 với sự mở cửa trở lại của nền kinh tế. Đây là ngành có vai trò lớn trong đóng góp vào tăng trưởng trong những năm gần đây.
Bên cạnh đó, chất lượng tăng trưởng năm 2022 cũng được dự báo ở mức cao hơn, thông qua dự báo tăng trưởng TFP và năng suất lao động được cải thiện.
Trên cơ sở đó, báo cáo khuyến nghị, Chính phủ cần quán triệt ba quan điểm cơ bản khi đưa ra các chính sách. Đầu tiên, các chính sách cần tập trung hướng đến làm thế nào để hồi phục và phát triển nền kinh tế một cách bền vững trong bối cảnh "sống chung với COVID-19".
Thứ hai, để đảm bảo cân bằng bên trong của nền kinh tế thì sản lượng cần được duy trì gần mức tiềm năng; cần thực hiện các chính sách tài khóa và tiền tệ hướng về tổng cầu trong ngắn hạn để đẩy nền kinh tế quay trở lại vị trí tiềm năng.
"Tuy nhiên, chính sách cần được nới lỏng một cách thận trọng để tránh gây rủi ro bất ổn kinh tế vĩ mô", báo cáo lưu ý.
Cuối cùng, dư địa chính sách dần thu hẹp, các chính sách cần hướng nguồn lực ưu tiên đến khu vực doanh nghiệp, tạo điều kiện cho khu vực doanh nghiệp phục hồi và phát triển trong đại dịch; đặc biệt là những doanh nghiệp có ảnh hưởng lan tỏa lớn đến nền kinh tế.