Đại diện Bộ Công Thương vừa cho biết kế hoạch xuất khẩu ban đầu năm 2017 của ngành than là 2 triệu tấn than cục, than cán loại 1,2,3 cho thị trường Nhật Bản, Hàn Quốc, một số nước châu Âu và 2 triệu tấn than cam loại 4b.3, 5a.3, 5b.3 khu vực Vàng Danh - Uông Bí cho thị trường Trung Quốc.
Tuy nhiên, phía Trung Quốc yêu cầu các loại than nhập khẩu từ Việt Nam trước khi pha trộn sử dụng phải được giám định lại chất lượng theo hàng rào tiêu chuẩn các nguyên tố vi lượng như thủy ngân, asen, phốt pho, clo, flo...
Tập đoàn Than và Khoáng sản Việt Nam (TKV) và một số đối tác, bạn hàng Trung Quốc đã tích cực phối hợp, nhiều lần lấy mẫu và phân tích mẫu than antraxit do TKV sản xuất tại nhiều phòng thí nghiệm trong nước và quốc tế. Kết quả phân tích mẫu cho thấy than antraxit do TKV sản xuất không đáp ứng được các yêu cầu về hàng rào tiêu chuẩn các nguyên tố vi lượng theo quy định của Chính phủ Trung Quốc.
Vì vậy, đến nay, TKV chưa ký được hợp đồng xuất khẩu chủng loại than cám 4b.3, 5a.3, 5b.3 khu vực Vàng Danh – Uông Bí vào thị trường Trung Quốc trong năm 2017, dẫn đến tồn kho tại khu vực Vàng Danh – Uông Bí khoảng 2,5 triệu tấn than.
Trong khi đó, theo báo cáo của TKV, sản lượng than thương phẩm năm 2018 của tập đoàn dự kiến là 36 triệu tấn, tiêu thụ trong nước là 32 triệu tấn, dành xuất khẩu 4 triệu tấn. Theo báo cáo của Tổng công ty Đông Bắc, sản lượng than thương phẩm tiêu thụ năm 2018 là 5,8 triệu tấn, xuất khẩu trên 50.000 tấn.
Tổng khối lượng than xuất khẩu dự kiến cả năm 2018 của TKV và Tổng công ty Đông Bắc là khoảng 4,05 triệu tấn, cao hơn 2 triệu tấn so với kế hoạch xuất khẩu than năm 2018 đã được Thủ tướng thông qua.
Để xử lý khối lượng than cám bị tồn kho nêu trên, TKV đang tích cực tìm kiếm, đàm phán với các đối tác, thị trường ngoài Trung Quốc, như Thái Lan, Hàn Quốc… để xuất khẩu than với khối lượng khoảng 2 triệu tấn. Trường hợp các rào cản về kỹ thuật được phía Chính phủ Trung Quốc tháo gỡ, khả năng xuất khẩu than của khu vực Vàng Danh – Uông Bí sẽ tăng lên.
Tuy vậy, do áp lực tồn kho, Bộ Công Thương đã kiến nghị Chính phủ cho phép TKV ký hợp đồng dài hạn xuất khẩu than cục, than cám chất lượng cao (loại 1, 2, 3) cho phía Nhật Bản do trong nước không có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không hết.
Cụ thể, bộ này còn cho rằng việc xuất khẩu than dài hạn sang Nhật giúp Việt Nam duy trì và khai thác nguồn tín dụng dài hạn nước ngoài, bảo lãnh cho các khoản tín dụng mà Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC) xem xét cấp cho TKV, hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực phục vụ sản xuất, phát triển, có thêm nguồn ngoại tệ…
Đặc biệt, những năm qua, Nhật Bản là thị trường truyền thống ổn định và có mối quan hệ hợp tác rất tốt trong việc nhập khẩu than của TKV. Việc duy trì xuất khẩu dài hạn sang Nhật giúp ngành than ổn định sản xuất kinh doanh, sử dụng hiệu qủa tài nguyên than, duy trì tốt mốt quan hệ 2 nước…
Hiện nay, Thủ tướng Chính phủ đã cho phép TKV xuất khẩu than cục, than cám chất lượng cao (cám 1, 2, 3) trong nước không có nhu cầu sử dụng hoặc sử dụng không hết trong giai đoạn 2017-2020. Tuy nhiên, thời hạn này chưa đáp đứng được yêu cầu cấp tín dụng của JBIC (tối thiểu là 5 năm tài khoá Nhật Bản).
Vì vậy, để TKV có điều kiện huy động nguồn tín dụng của JBIC, Bộ Công Thương kiến nghị Thủ tướng Chính phủ cho phép TKV được ký hợp đồng nguyên tắc dài hạn đến năm 2025 xuất khẩu than cục, than cám chất lượng cao. Khối lượng cụ thể TKV thực hiện theo quy định hiện hành và phù hợp với kế hoạch xuất khẩu than hằng năm được Thủ tướng phê duyệt.