Dầu giảm từ mức cao nhất 7 năm
Giá dầu giảm hơn 3% từ mức đỉnh 7 năm khi Nga cho biết một số đơn vị quân đội của họ đang trở về căn cứ sau khi tập trận gần Ukraina, một động thái làm giảm leo thang căng thẳng giữa Moscow và phương Tây.
Chốt phiên 15/2, dầu thô Brent giảm 3,2 USD hay 3,3% xuống 93,28 USD/thùng. Dầu thô WTI giảm 3,39 USD hay 3,6% xuống 92,07 USD/thùng. Cả hai loại dầu này đã đạt mức cao nhất kể từ tháng 9/2014 trong phiên trước. Giá dầu Brent tăng 50% trong năm 2021, trong khi dầu WTI tăng khoảng 60%, do sự phục hồi nhu cầu toàn cầu từ đại dịch Covid-19.
Các nhà đầu tư cũng đang theo dõi cuộc đàm phán giữa Mỹ và Iran về việc khôi phục thỏa thuận hạt nhân của Iran với các cường quốc, điều này có thể cho phép xuất khẩu dầu của Iran tăng lên.
Nhấn mạnh cân bằng cung cầu thắt chặt, các báo cáo hàng tuần về tồn kho của Mỹ dự kiến cho thấy tồn trữ dầu thô của nước này giảm 1,6 triệu thùng, xuống mức thấp nhất trong hơn 3 năm.
Vàng, palađi giảm do căng thẳng về Ukraina dịu đi
Giá kim loại quý giảm với vàng giảm từ mức cao nhiều tháng và palađi giảm hơn 5% do tin tức quân đội Nga gần Ukraina đang trở về căn cứ của họ.
Vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 1.855,06 USD/ounxe sau khi đạt cao nhất kể từ ngày 11/6/2021 tại 1.879,48 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4 đóng cửa giảm 0,7% xuống 1.856,2 USD/ounce.
Chứng khoán và các tài sản rủi ro khác đã phục hồi nhẹ, dừng tình trạng bán tháo vài ngày qua. Trong khi đó, số liệu cho thấy giá sản xuất của Mỹ tăng nhiều hơn dự kiến trong tháng 1. Số liệu lạm phát cao hơn dự kiến đang gây áp lực cho thị trường vàng do có thể khiến Cục dự trữ Liên bang thực hiện nâng lãi suất nhanh hơn.
Palađi giảm 4,6% xuống 2.252,68 USD/ounce sau khi lo sợ gián đoạn nguồn cung bởi xung đột Nga – Ukraina đã đẩy giá lên mức cao nhất hai tuần trong phiên trước.
Giá đồng tăng
Đồng giao sau 3 tháng trên sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,5% lên 9.965 USD/tấn sau khi tăng 0,6% trong phiên trước đó. Đồng trên sàn Comex tăng 0,6% lên 4,54 USD/lb.
Thị trường kim loại trong ngắn hạn vẫn chịu ảnh hưởng của tình hình Ukraina. Nếu loại bỏ các áp lực địa chính trị, xu hướng chung là tăng giá đối với hầu hết các kim loại. Dự kiến mục tiêu của đồng là 11.000 USD/tấn, nhôm là 3,500 USD/tấn và nicken là 30.000 USD/tấn.
Nhu cầu mua tại Trung Quốc dự kiến bắt đầu phục hồi trong vài tuần tới khi nền kinh tế trở lại bình thường sau kỳ nghỉ Tết Nguyên Đán, dự trữ đồng có thể ở mức thấp nhiều năm trong ngắn hạn.
Quặng sắt lao dốc
Giá quặng sắt giảm do nhà đầu tư rút tiền khỏi hàng hóa này trong bối cảnh lo sợ siết chặt chính sách của Trung Quốc, Bắc Kinh cảnh báo họ sẽ hành động chống lại sự lan truyền của các thông tin sai lệch giá.
Quặng sắt giao tháng 5 trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên giảm 10%, mức giới hạn một ngày xuống 699 CNY (110,08 USD)/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 18/1.
Thành phần sản xuất thép này kỳ hạn tháng 3 tại Singapore giảm khoảng 13,8% xuống 127,9 USD/tấn.
Việc tiếp tục bị bán tháo quặng sắt phản ánh lo lắng của nhà đầu tư khi cơ quan hoạch định nhà nước Trung Quốc cùng với cơ quan điều hành thị trường sẽ triệu tập các nhà đầu tư quặng sắt trong và ngoài nước tại một cuộc họp vào ngày 17/2, trong một lỗ lực đảm bảo ổn định thị trường.
Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe giảm, giao dịch tại 149 USD/tấn trong ngày 14/1, sau khi gần mức cao nhất 6 tháng tại 152,5 USD/tấn trong tuần trước, theo số liệu từ SteelHome.
Thép thanh dùng trong xây dựng tại Thượng Hải giảm 2,8%, thép cuộn cán nóng giảm 2,7%. Thép không gỉ tăng 1,4%.
Cao su Nhật Bản giảm theo giá Thượng Hải
Giá cao su tại Nhật Bản giảm sau 6 ngày tăng, bởi giá giảm tại Thượng Hải và chứng khoán Châu Á suy yếu trong bối cảnh căng thẳng giữa Nga và Ukraina.
Cao su giao tháng 7 trên sàn giao dịch Osaka giảm 3,4 JPY hay 1,3% xuống 254,2 JPY (2,2 USD)/kg sau 6 phiên tăng. Cao su đã chạm mức cao nhất 8,5 tháng trong phiên trước.
Hợp đồng cao su giao tháng 5 tại Thượng Hải giảm 275 CNY xuống 14.355 CNY (2.260,17 USD)/tấn.
Đường giảm
Đường thô kỳ hạn tháng 3 đóng cửa giảm 0,05 US cent hay 0,3% xuống 18,07 US cent/lb
Các đại lý cho biết thị trường vẫn trong phạm vi 17,77 tới 18,68 US cent/lb trong tháng này, với triển vọng có thể phụ thuộc vào mức độ sản xuất mía và đường tại khu vực trung nam Brazil phục hồi trong niên vụ 2022/23.
Một thăm dò của nhà môi giới Marex đã đưa ra dự báo sản lượng mía trung bình tại khu vực trung nam Brazil là 554 triệu tấn, giảm nhẹ so với dự báo trung bình 560 triệu tấn trong một thăm dò của Reuters từ tháng trước. Thăm dò của Marex cũng dự báo sản lượng đường của khu vực này đạt 33,81 triệu tấn, thấp hơn một chút so với dự báo 34,35 triệu tấn trong thăm dò của Reuters.
Tổ chức Unica của Brazil cho biết các nhà sản xuất ethanol của nước này đã bán nhiên liệu này ít hơn 32% so với cùng tháng một năm trước.
Đường trắng kỳ hạn tháng 5 giảm 2,2 USD hay 0,5% xuống 480 USD/tấn.
Cà phê tăng
Cà phê arabica kỳ hạn tháng 5 đóng cửa tăng 3,85 US cent hay 1,6% lên 2,5175 USD/lb, hướng tới mức đỉnh 10 năm tại 2,6045 USD đã đạt được trong tuần trước.
Các đại lý cho biết tồn kho cà phê arabica giảm mạnh vẫn là một yếu tố hỗ trợ quan trọng.
Cà phê robusta kỳ hạn tháng 5 tăng 22 USD hay 1% lên 2.265 USD/tấn.
Lúa mì, ngô và đậu tương giảm
Giá lúa mì và ngô trên sàn giao dịch Chicago giảm khi thông báo một số đơn vị quân đội của Nga rút về căn cứ. Đậu tương giảm do khả năng mưa tại các khu vực trồng đang khô hạn ở Argentina và miền nam Brazil.
Hợp đồng lúa mì CBOT đóng cửa giảm 19-1/2 US cent xuống 7,79-3/4 USD/bushel.
Đậu tương CBOT giảm 18-3/4 US cent xuống 15,51-1/4 USD/bushel. Ngô giảm 17-3/4 US cent xuống 6,38 USD/bushel, giảm 2,71%, ngày giảm mạnh nhất kể từ 23/7/2021.