Dầu tăng gần 2%
Do các yếu tố địa chính trị gây thắt chặt nguồn cung, khiến xuất khẩu giảm từ Venezuela và tồn kho của Mỹ giảm. Bất chấp những lo ngại về nhu cầu yếu hơn do suy thoái kinh tế, giá dầu đã tăng hơn 25% từ đầu năm tới nay, nhờ vào những nỗ lực kiềm chế nguồn cung của OPEC+ và tổn thất do lệnh trừng phạt của Mỹ đối với Iran và Venezuela gây ra.
Cảng xuất khẩu dầu chính của Venezuela là Jose và bốn nhà cung cấp dầu thô của Venezuela đã không thể tiếp tục hoạt động sau khi mất điện lớn vào ngày đầu tuần, đây là lần mất điện thứ hai trong tháng. Mất điện hồi đầu tháng do nhiều năm thiếu đầu tư và thiếu bảo trì, cũng làm gián đoạn xuất khẩu dầu tại Jose, làm xói mòn xuất khẩu và gây ra sự chậm trễ trong việc nạp và xả dầu.
Chốt phiên giao dịch đêm qua, giá dầu Brent đã tăng 76 xu lên mức 67,97 USD/thùng, gần bằng mức cao nhất từ đầu năm tới nay là 68,69 USD, đạt được vào ngày 21/3. Giá dầu thô Mỹ tăng mạnh hơn, tăng 1,12 USD, tương đương 1,9%, lên 59,94 USD/thùng.
Vàng rời khỏi mức cao hơn 3 tuần
Vàng đã rời khỏi mức cao hơn 3 tuần đạt được vào phiên trước đó sau khi USD đã hồi phục trở lại và lợi suất trái phiếu phục hồi khi nỗi sợ hãi giảm bớt về một cuộc suy thoái có thể xảy ra ở Mỹ.
Vàng giao ngay đã giảm 0,5% xuống còn 1.313,82 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ 28/2 là 1.324,33 USD/ounce trong phiên giao dịch đầu tuần. Giá vàng kỳ hạn tại Mỹ đã giảm 0,6% xuống còn 1.315 USD/ounce.
Đường và cà phê đồng loạt tăng
Giá đường thô lên và cà phê arabica chốt phiên đồng loạt tăng lên. Đường thô tăng 0,11 cent, tương đương 0,9%, lên mức 12,59 cent/lb, vẫn duy trì trong biên độ dao động gần đây là 12 -13 cent/lb. Giá được hỗ trợ bởi giá dầu cao hơn đã khuyến khích các nhà máy mía ở Brazil sản xuất ethanol từ đường nhiều hơn. Giá đường trắng giảm 90 cent, tương đương 0,3%, xuống còn 331,60 USD/tấn. Trong khi đó, giá cà phê arabica tháng 5 cũng tăng 1,1 cent, tương đương 1,2%, lên mức 95,35 cent/lb.
Thép và quặng sắt đều giảm
Giá quặng sắt Đại Liên chốt phiên giảm sau khi các công ty khai thác quặng lớn tại Australia khôi phục lại một số hoạt động sau cơn bão, làm giảm bớt lo ngại về nguồn cung khan. Điều này làm giúp giảm bớt căng thẳng nguồn cung khi tòa án Brazil buộc đóng cửa một số mỏ thuộc công ty Vale.
Hoạt động tại đập thứ 13 vẫn bị tê liệt khiến mỏ Brucutu lớn của Vale, với công suất hàng năm là 30 triệu tấn quặng sắt, mất nhiều thời gian hơn dự kiến để quay trở lại sản xuất.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên giảm 0,8% xuống còn 609 CNY(90,75 USD)/tấn vào lúc đóng cửa.
Tuy nhiên, dự trữ quặng sắt vẫn tiếp tục cao trong tuần kết thúc vào 22/3 đạt 148,6 triệu tấn do các nhà máy thép vẫn chưa khôi phục hoàn toàn sản xuất sau những hạn chế sản xuất.
Trong khi đó, giá thép tiếp tục giảm trong bối cảnh những lo ngại dai dẳng về suy thoái kinh tế toàn cầu và các cuộc đàm phán thương mại không chắc chắn giữa Bắc Kinh và Washington dự kiến vào cuối tuần này.
Giá thép cây Thượng Hải đã giảm 0,7% xuống còn 3,705 CNY/ tấn, trong khi giá thép cuộn cán nóng chốt phiên giảm 0,7% xuống còn 3.662 CNY.
Sản lượng thép thô toàn cầu đã tăng 4,1% lên 137 triệu tấn trong tháng 2/2019 so với cùng tháng năm ngoái, số liệu từ Hiệp hội Thép Thế giới cho thấy hôm qua. Sản lượng thép thô từ Trung Quốc đã tăng lên 71,0 triệu tấn, tăng 9,2%.
Giá cao su tăng tại Tokyo, giảm tại Thượng Hải
Giá cao su kỳ hạn tại Tokyo giao hàng tháng 9/2019 đã tăng 0,2 JPY lên 184,8 JPY(1,68 USD)/ kg, lần tăng giá đầu tiên trong 4 phiên qua. Giá cao su TSR 20 của TOCOM giao hàng tháng 9/2019 tăng 0,3% đạt 163,4 JPY/kg.
Trong khi đó, giá hợp đồng tháng 8/2019 tại Thượng Hải chốt phiên giảm 1,3% còn 11.505 CNY (1.715,14 USD)/tấn.
Giá cao su giao tháng 4/2019 tại Singapore cũng giảm 1,7cent còn 146,5 Uscent/kg.
Giá tiêu thế giới ổn định
Ngày 25/3, giá hạt tiêu thế giới giao ngay tại sàn Kochi (Ấn Độ) ổn định ở mức 34.250 Rupi/tạ. Giá tiêu giao tháng 3/2019 cũng ổn định ở mức 34.860Rupi/tạ. Giá hạt tiêu trên sàn SMX, Singapore giao tháng 9 vẫn không đổi, ở mức 6.500 USD/tấn.
Hàng trăm mẫu đất trồng tiêu tại Ấn Độ đang bị đe dọa bởi bệnh héo nhanh do tình trạng hạn hán vẫn còn phổ biến.
Theo ông Reji Thomas, một nông dân từ Vazhavatta, ông đã thu về 3 tạ hạt tiêu đen từ hai mẫu đất của mình nhưng hầu hết các cây đã bị phá hủy nhanh chóng. Giá hạt tiêu đã giảm từ 760 rupee/kg trong năm 2016 xuống còn 400 rupee vào năm ngoái. Hôm 15/3, giá hạt tiêu tại cổng nông trại ở Wayanad là 300 - 310 rupee.
"Giá tiêu tại cửa nông trại đã đạt 500 rupee trong cùng kì năm ngoái", ông M.C. Abdu, một đại lý hồ tiêu ở Wayanad, cho hay.
Giá hạt tiêu (sàn Kochi - Ấn Độ)
Kỳ hạn | Giá khớp | Thay đổi | Cao nhất | Thấp nhất | Mở cửa | Hôm trước |
GIAO NGAY | 34250 | 0 | 34250 | 34000 | 34000 | 34265 |
03/19 | 34860 | 0 | 34950 | 34860 | 34950 | 34950 |
Giá hạt tiêu (sàn SMX - Singapore)
Kỳ hạn | Giá khớp | Thay đổi | Cao nhất | Thấp nhất | Mở cửa | Hôm trước |
09/19 | 6500 | 0 | 6500 | 6500 | 6500 | 6462 |
Giá chuối Trung Quốc điều chỉnh theo nguồn cung
Nguồn cung chuối từ các khu vực sản xuất ở Quảng Đông và Quảng Tây hiện còn ít, do vậy giá biến động không lớn. Tuy nhiên, ở vùng sản xuất chuối phía tây nam, giá đã có biến động mạnh. Giá đã tăng liên tục từ tuần trước sang tuần này, hiện giá đã ổn định hơn khi các thương gia có tâm lý chững lại để xem xét tình hình.
Giá chuối chất lượng trung bình cũng tăng khi giá chuối nói chung tăng. Thị trường đang có sự điều chỉnh, giá chuối chất lượng trung bình giảm đầu tiên và giảm nhiều nhất. Giá chuối chất lượng hàng đầu giảm chậm hơn vì nguồn cung vẫn còn hạn chế và người mua cạnh tranh để có được những quả chuối chất lượng hàng đầu.
Giá chung trong các khu vực sản xuất chuối vẫn ở mức cao. Nguồn cung vẫn còn hạn chế, đặc biệt là chuối loại 1. Mặc dù giá đang điều chỉnh nhưng vẫn sẽ cao trong một thời gian.
Giá một số mặt hàng chủ chốt lúc 7h sáng ngày 27/3