Giá dầu tăng hơn 1 USD/thùng
Giá dầu tăng hơn 1 USD/thùng, do triển vọng OPEC+ tiếp tục cắt giảm sản lượng, các cuộc tấn công liên tục vào cơ sở hạ tầng năng lượng của Nga và số lượng giàn khoan của Mỹ giảm, khiến nguồn cung dầu thô thắt chặt.
Chốt phiên giao dịch ngày 28/3, dầu thô Brent kỳ hạn tháng 5/2024 đạt 87,48 USD/thùng – cao nhất kể từ ngày 27/10/2023, sau khi tăng 1,39 USD tương đương 1,6% và dầu thô Brent kỳ hạn tháng 6/2024 tăng 1,58 USD lên 87 USD/thùng. Dầu Tây Texas WTI kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 1,82 USD tương đương 2,2% lên 83,17 USD/thùng. Tính chung cả tuần, giá dầu Brent tăng 2,4% và dầu WTI tăng 3,2%. Cả hai loại dầu đều có tháng tăng thứ 3 liên tiếp.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ cao nhất 2 tuần
Giá khí tự nhiên tại Mỹ tăng 3% lên mức cao nhất 2 tuần, do dự báo nhu cầu trong hơn 2 tuần tới cao hơn so với dự kiến trước đó và tồn trữ giảm.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn New York tăng 4,5 US cent tương đương 2,6% lên 1,763 USD/mmBTU – cao nhất kể từ ngày 8/3/2024.
Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên tăng 6%, tháng giảm 5% và trong quý 1/2024 giảm 30%.
Giá vàng đạt mức cao kỷ lục
Giá vàng đạt mức cao kỷ lục và có tháng tăng mạnh nhất hơn 3 năm, được thúc đẩy bởi kỳ vọng cắt giảm lãi suất của Mỹ và nhu cầu trú ẩn an toàn tăng.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 1,2% lên 2.220,85 USD/ounce. Tính chung cả tháng, giá vàng tăng 9% - tháng tăng mạnh nhất kể từ tháng 7/2020 và có quý tăng thứ 2 liên tiếp. Trong đầu phiên giao dịch, giá vàng đạt 2.225,09 USD/ounce – mức cao kỷ lục. Vàng kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn New York tăng 1,2% lên 2.238,4 USD/ounce.
Giá nhôm cao nhất gần 3 tháng, đồng tăng
Giá đồng và nhôm trên sàn London tăng, do hoạt động đẩy mạnh mua vào trước khi kết thúc quý đầu tiên của năm 2024.
Trên sàn London, giá đồng giao sau 3 tháng tăng 0,3% lên 8.870,5 USD/tấn. Giá nhôm tăng 1,7% lên 2.337,5 USD/tấn, sau khi đạt 2.340 USD/tấn – cao nhất kể từ ngày 2/1/2024.
Hoạt động sản xuất của Trung Quốc có thể giảm tháng thứ 6 liên tiếp trong tháng 3/2024 song với tốc độ chậm hơn.
Giá quặng sắt giảm phiên thứ 3 liên tiếp, thép cây giảm
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên giảm phiên thứ 3 liên tiếp, do mùa xây dựng của Trung Quốc bắt đầu chậm và nguồn cung từ Brazil tăng cao.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Đại Liên giảm 1,5% xuống 800 CNY (110,73 USD)/tấn – thấp nhất kể từ ngày 19/3/2024.
Trong khi đó, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore tăng 1,4% lên 102,7 USD/tấn.
Các nhà phân tích thuộc Citi cho biết, giá quặng sắt chịu áp lực giảm do nhiều yếu tố, bao gồm mùa xây dựng của Trung Quốc bắt đầu chậm, xuất khẩu quặng sắt của Brazil tăng cao và xuất khẩu từ các nhà cung cấp phi truyền thống vào Trung Quốc cao, trong bối cảnh giá quặng sắt cuối năm 2023 ở mức cao.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,9% xuống 3.741 CNY/tấn, thép cuộn cán nóng giảm 1,8% xuống 3.675 CNY/tấn, thép cuộn giảm 1,1% xuống 3.757 CNY/tấn, trong khi đó giá thép không gỉ tăng 0,9% lên 13.495 CNY/tấn.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp
Giá cao su tại Nhật Bản tăng phiên thứ 3 liên tiếp, cùng với đó là giá dầu tăng cao cũng hỗ trợ giá.
Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 5 JPY tương đương 1,56% lên 326,2 JPY (2,16 USD)/kg.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 85 CNY lên 14.655 CNY (2.027,81 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Singapore giảm 0,9% xuống 158,9 US cent/kg.
Giá cà phê tăng tại Việt Nam, đồng loạt giảm tại Indonesia, New York và London
Giá cà phê tại Việt Nam tăng lên mức cao kỷ lục, được hỗ trợ bởi nguồn cung thắt chặt và lo ngại thời tiết khô sẽ khiến sản lượng cà phê năm tới suy giảm.
Giá cà phê robusta xuất khẩu của Việt Nam (loại 2, 5% đen & vỡ) chào bán ở mức cộng 600-620 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London. Tại thị trường nội địa, cà phê nhân xô được bán với giá 98.100-100.200 VND (3,96-4,04 USD)/kg, tăng so với 93.000-94.200 VND/kg 1 tuần trước đó.
Tại Indonesia, giá cà phê robusta loại 4 (80 hạt lỗi) chào bán ở mức cộng 720 USD/tấn so với hợp đồng kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn London, giảm so với mức cộng 820 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Tại New York, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 0,9% xuống 1,8885 USD/lb.
Tại London, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 5/2024 giảm 80 USD tương đương 2,2% xuống 3.479 USD/tấn.
Giá đường tăng
Giá đường thô kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn ICE tăng 0,33 US cent tương đương 1,5% lên 22,52 US cent/lb.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn London tăng 1,1% lên 652,5 USD/tấn.
Giá ngô và lúa mì tăng, đậu tương giảm
Giá ngô trên sàn Chicago có phiên tăng mạnh nhất kể từ tháng 7/2023, sau khi Bộ Nông nghiệp Mỹ công bố tồn trữ ngũ cốc và diện tích trồng thấp hơn dự kiến.
Trên sàn Chicago, giá ngô kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 15-1/4 US cent lên 4,42 USD/bushel, trong phiên có lúc đạt 4,48 USD/bushel – cao nhất kể từ ngày 9/2/2024. Tính chung cả tháng, giá ngô tăng 3%, sau khi giảm 4 tháng trước đó. Giá lúa mì kỳ hạn tháng 5/2024 tăng 12-3/4 US cent lên 5,6-1/4 USD/bushel. Giá đậu tương giao cùng kỳ hạn giảm 1 US cent xuống 11,91-1/2 USD/bushel.
Giá gạo tăng tại Ấn Độ, không thay đổi tại Việt Nam, giảm tại Thái Lan
Giá xuất khẩu gạo tại nước xuất khẩu hàng đầu - Ấn Độ - tăng, do thuế xuất khẩu gạo tăng, trong khi nhu cầu gạo tại Thái Lan giảm.
Tại Ấn Độ - nước xuất khẩu gạo hàng đầu, giá gạo 5% tấm ở mức 550-558 USD/tấn, so với 543-550 USD/tấn 1 tuần trước đó và đạt mức cao kỷ lục 560 USD/tấn vào đầu tháng này.
Đối với loại 5% tấm, giá gạo Việt Nam ở mức 590-595 USD/tấn, không thay đổi so với 1 tuần trước đó.
Tại Thái Lan, giá gạo 5% tấm ở mức 585-590 USD/tấn, giảm so với 598 USD/tấn 1 tuần trước đó.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 29/ 3