Giá dầu tăng nhẹ
Giá dầu tăng nhẹ song hoạt động giao dịch trầm lắng trong phiên cuối cùng của năm.
Chốt phiên giao dịch ngày 29/12, dầu thô Brent tăng 12 US cent lên 77,27 USD/thùng và dầu thô Tây Texas WTI tăng 16 US cent lên 71,93 USD/thùng.
Kết thúc năm, cả hai loại dầu đều giảm 10% sau 2 năm tăng liên tiếp, do lo ngại về địa chính trị và việc cắt giảm sản lượng khiến giá dầu dao động. Cả hai loại dầu đều có năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2020, do đại dịch ảnh hưởng đến nhu cầu và khiến giá giảm mạnh .
Việc cắt giảm sản lượng của Tổ chức Các nước Xuất khẩu Dầu mỏ (OPEC) và các đồng minh dẫn đầu là Nga, được gọi là OPEC+ không đủ để hỗ trợ giá. Tính cả năm, giá dầu đã giảm gần 20% kể từ mức cao nhất trong năm. OPEC+ cắt giảm sản lượng khoảng 6 triệu thùng/ngày, chiếm khoảng 6% nguồn cung toàn cầu.
OPEC đang phải đối mặt với nhu cầu dầu thô suy yếu trong nửa đầu năm 2024, khi thị phần toàn cầu của khối này giảm xuống mức thấp nhất kể từ đại dịch cắt giảm sản lượng và việc Angola rời khỏi nhóm.
Một cuộc khảo sát của Reuters với 34 nhà kinh tế và phân tích dự báo giá dầu thô Brent sẽ ở mức trung bình 82,56 USD/thùng trong năm 2024, giảm so với mức 84,43 USD/thùng trong tháng 11/2023, do dự đoán tăng trưởng toàn cầu suy yếu sẽ hạn chế nhu cầu, cùng với đó là căng thẳng địa chính trị có thể khiến nhu cầu suy giảm.
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm
Giá khí tự nhiên tại Mỹ giảm và có năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2006, chịu áp lực giảm bởi sản lượng đạt mức cao kỷ lục, tồn trữ cao và điều kiện thời tiết ôn hòa.
Giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York giảm 4,3 US cent tương đương 1,7% xuống 2,51 USD/mmBTU. Tính chung cả tháng, giá khí tự nhiên giảm hơn 10% - tháng giảm thứ 2 liên tiếp.
Tính chung cả năm 2023, giá khí tự nhiên giảm gần 44% - năm giảm đầu tiên trong 4 năm và là năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2006.
Giá vàng duy trì ổn định
Giá vàng duy trì ổn định, vượt ngưỡng 2.000 USD/ounce và có năm tăng mạnh nhất kể từ năm 2020, được thúc đẩy bởi kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có thể cắt giảm lãi suất sớm nhất vào tháng 3/2024.
Vàng giao ngay trên sàn LBMA thay đổi nhẹ ở mức 2.064,34 USD/ounce. Vàng kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York giảm 0,6% xuống 2.071,8 USD/ounce.
Tính chung cả năm 2023, giá vàng tăng 13% và dao động mức thấp gần 1.800 USD/ounce và mức cao kỷ lục 2.135,4 USD/ounce.
Chỉ số đồng USD giảm 2% năm 2023. Đồng thời, lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chạm gần mức thấp nhất kể từ tháng 7/2023.
Giá đồng giảm
Giá đồng giảm, do đồng USD tăng và hoạt động bán ra chốt lời, song có năm tăng khiêm tốn do nhu cầu từ Trung Quốc tăng và kỳ vọng Mỹ cắt giảm lãi suất.
Giá đồng giao sau 3 tháng trên sàn London giảm 0,9% xuống 8.545 USD/tấn. Tính chung cả năm, giá đồng tăng 2,1% sau khi giảm 13,9% năm 2022.
Giá nhôm và thiếc cũng có năm tăng 0,3% và 2,4% theo thứ tự lần lượt.
Trong khi kẽm và chì có năm giảm 10,5% và 9,9% theo thứ tự lần lượt, nickel giảm mạnh nhất 44,9%.
Giá quặng sắt tăng, thép cây giảm
Giá quặng sắt trên sàn Đại Liên tăng, rời khỏi chuỗi tăng 2 phiên liên tiếp. Kết thúc năm 2023, giá quặng sắt tăng 55,1%, được thúc đẩy bởi các biện pháp kích thích tại Trung Quốc.
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Đại Liên tăng 0,3% lên 973,5 CNY (137,31 USD)/tấn. Tính chung cả tháng, giá quặng sắt tăng 6,9% - tháng tăng thứ 5 liên tiếp.
Đồng thời, giá quặng sắt kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Singapore tăng 1,3% lên 137,24 USD/tấn. Tính chung cả tháng, giá quặng sắt tăng 7,4% - tháng tăng thứ 5 liên tiếp. Tính chung cả năm, giá quặng sắt tăng 26,4%.
Trên sàn Thượng Hải, giá thép cây giảm 0,1% và thép không gỉ giảm 2,4%, trong khi giá thép cuộn cán nóng tăng 0,1% và thép cuộn tăng 4,6%.
Giá cao su tại Nhật Bản tăng
Giá cao su tại Nhật Bản kết thúc năm tăng 17,7%, sau khi giảm trong năm 2022, do thị trường lạc quan về các biện pháp kích thích tiềm năng từ chính phủ Trung Quốc.
Giá cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Osaka tăng 3 JPY tương đương 1,2% lên 256,5 JPY (1,82 USD)/kg. Tuy nhiên, tính chung cả tháng giá cao su giảm 2,5% - tháng giảm đầu tiên sau 4 tháng tăng liên tiếp.
Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 260 CNY tương đương 1,9% lên 14.160 CNY (1.997,24 USD)/tấn.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2024 trên sàn Singapore tăng 2,4% lên 154,7 US cent/kg.
Giá cà phê giảm
Giá cà phê arabica trên sàn ICE giảm mạnh, do triển vọng vụ thu hoạch của Brazil trong năm tới được cải thiện.
Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE giảm 4,9% xuống 1,883 USD/lb – thấp nhất 3 tuần. Tuy nhiên, tính chung cả năm giá cà phê arabica tăng 12,6%.
Đồng thời, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London giảm 3,2% xuống 2.841 USD/tấn. Tính chung cả năm, giá cà phê robusta tăng 58%, được thúc đẩy bởi xuất khẩu từ nước sản xuất hàng đầu – Việt Nam – giảm và nhu cầu tăng mạnh.
Xuất khẩu cà phê của Việt Nam năm 2023 ước tính giảm 9,6% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 1,6 triệu tấn.
Giá đường giảm
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE giảm 5,4% xuống 20,58 US cent/lb. Tính chung cả năm, giá đường thô tăng 3%.
Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London giảm 4,2% xuống 596,2 USD/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm giá đường trắng tăng 7,5%.
Giá ngô, lúa mì và đậu tương đồng loạt giảm
Giá ngô trên sàn Chicago giảm và có năm giảm mạnh nhất 1 thập kỷ, cùng với đó là giá lúa mì và đậu tương có năm giảm mạnh nhất sau vụ thu hoạch bội thu tại Brazil.
Trên sàn Chicago, giá lúa mì giảm 3-1/2 US cent xuống 6,28 USD/bushel, giá đậu tương giảm 14 US cent xuống 12,98 USD/bushel. Giá ngô giảm 3 US cent xuống 4,71-1/4 USD/bushel. Tính chung cả năm, giá ngô giảm 31% - năm giảm mạnh nhất kể từ năm 2013. Giá lúa mì giảm 21% và giá đậu tương giảm 15%.
Giá dầu cọ tăng
Giá dầu cọ tại Malaysia tăng, song có năm giảm thứ 2 liên tiếp.
Giá dầu cọ kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 5 ringgit tương đương 0,13% lên 3.744 ringgit (815,69 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả năm, giá dầu cọ giảm 10%.
Giá một số mặt hàng chủ chốt sáng ngày 30/12