Bộ Công thương cho biết, ngày 21/10/2019, Bộ Công Thương ban hành Quyết định số 3162/QĐ-BCT về kết quả rà soát cuối kỳ việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với một số sản phẩm thép không gỉ cán nguội có xuất xứ từ Trung Quốc, Malaysia, Indonesia và vũng lãnh thổ Đài Loan.
Theo quy định khoản 1 Điều 13 Thông tư 06/2018/TT-BCT ngày 20/ 4/2018 quy định chi tiết một số nội dung về các biện pháp phòng vệ thương mại (Thông tư 06) quy định như sau: “Sau khi Bộ trưởng Bộ Công Thương ban hành quyết định áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại tạm thời hoặc chính thức hoặc quyết định về kết quả rà soát biện pháp phòng vệ thương mại, Cơ quan điều tra có nghĩa vụ thông báo về việc tiếp nhận hồ sơ miễn trừ”.
Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày đăng thông báo này, các doanh nghiệp có thể nộp Hồ sơ đề nghị miễn trừ theo các quy định tại Thông tư 06 để Cơ quan điều tra đánh giá, xem xét miễn trừ dựa trên theo các tiêu chí xem xét miễn trừ tại Điều 11 Thông tư 06.
Căn cứ quy định nêu trên, Cục Phòng vệ thương mại (PVTM) thông báo tiếp nhận hồ sơ đề nghị miễn trừ áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại của vụ việc, cụ thể như sau:
- Bộ Công thương thông báo tiếp nhận Hồ sơ miễn trừ, có thể được truy cập tại trang thông tin điện tử của Bộ Công Thương (http://www.moit.gov.vn) và Cục PVTM (http://www.pvtm.gov.vn).
- Nộp Hồ sơ đề nghị miễn trừ: Đối tượng đề nghị miễn trừ nộp Hồ sơ đề nghị miễn trừ áp dụng biện pháp (Hồ sơ) cho Cục PVTM.
- Xác nhận hồ sơ hợp lệ: Cục PVTM thông báo về tính đầy đủ và hợp lệ của Hồ sơ miễn trừ. Doanh nghiệp bổ sung hồ sơ trong trường hợp cần thiết (thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định 10/2018/NĐ-CP và khoản 5 Điều 13 Thông tư 06/2018/TT-BCT).
- Thẩm định Hồ sơ đề nghị miễn trừ và ban hành Quyết định miễn trừ.
- Báo cáo định kỳ: đối tượng được miễn trừ phải nộp báo cáo định kỳ về tình hình nhập khẩu hàng hóa được miễn trừ và việc tuân thủ điều kiện, nghĩa vụ được miễn trừ tới Cục PVTM (thực hiện theo Điều 16 Thông tư 06/2018/TT-BCT).
- Kiểm tra sau miễn trừ: Cục PVTM có thể tiến hành kiểm tra sau miễn trừ nhằm mục đích thẩm định việc tuân thủ của đối tượng được miễn trừ đối với các điều kiện, quy định pháp luật về miễn trừ.