Theo đó NHNN cho biết, hàng năm, tại các Chỉ thị, NHNN luôn chỉ đạo các TCTD cân đối nguồn vốn cho vay đối với các lĩnh vực ưu tiên, quy định trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND thấp hơn lãi suất cho vay thông thường khoảng 1-2%/năm. Cơ quan này cũng chỉ đạo NHNN chi nhánh các tỉnh, thành phố tích cực tổ chức kết nối ngân hàng – doanh nghiệp để nắm bắt, tháo gỡ khó khăn, tăng cường khả năng tiếp cập vốn tín dụng của doanh nghiệp.
Về phía các TCTD, thực hiện chỉ đạo của NHNN về việc tập trung vốn tín dụng cho lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, các TCTD chủ động tiếp cận đối tượng khách hàng là nhóm DNNVV, đưa ra nhiều chương trình, sản phẩm ưu tiên, hỗ trợ cho các khách hàng DNNVV với mức lãi suất thấp hơn quy định của NHNN. Nhiều ngân hàng đã đưa ra các gói tín dụng ưu đãi như BIDV tổng các gói tới 90.000 tỷ, ở ACB là hơn 10.000 tỷ...
Tính đến 30/9/2019, dư nợ tín dụng đối với DNNVV đạt 1.475.828 tỷ đồng, tăng 12,9% so với cuối năm 2018 (cùng kỳ tháng 9/2018 tăng 12,34%), với 196.689 khách hàng còn dư nợ. Trong đó, dư nợ đối với DNNVV hoạt động trong ngành công nghiệp và xây dựng chiếm khoảng 41%; DNNVV hoạt động trong ngành thương mại và dịch vụ 54%; DNNVV hoạt động trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 5% trên tổng dư nợ.
Như vậy, đến cuối tháng 9/2019, dư nợ tín dụng đối với DNNVV tăng cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng chung của nền kinh tế (9,4% so với cuối năm 2018) và cao hơn cùng kỳ năm 2018. Trong điều kiện DNNVV ít có khả năng huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán, các nguồn vốn hỗ trợ có nguồn từ ngân sách nhà nước, vốn hỗ trợ quốc tế còn hạn chế thì vốn tín dụng ngân hàng vẫn là kênh tài trợ vốn chủ yếu cho DNNVV phục vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh.
NHNN cũng cập nhật các con số tín dụng cụ thể chảy vào một số lĩnh vực.
Chẳng hạn đến cuối tháng 9/2019, dư nợ cho vay đối với DNNVV hoạt động trong ngành nông nghiệp đạt 64.849 tỷ đồng, tăng 3,83% so với cuối năm 2018, chiếm 3,36% tổng dư nợ của lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (đến cuối tháng 9/2019, dư nợ lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đạt 1,93 triệu tỷ đồng, tăng 8,11% so với cuối năm 2018, chiếm tỷ trọng khoảng 24,48% dư nợ tín dụng nền kinh tế).
Đối với DNNVV hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ, đến cuối tháng 9/2019, tổng dư nợ đối với DNNVV hoạt động trong lĩnh vực này đạt 820.778 tỷ đồng, tăng 15,59% so với cuối năm 2018 (cùng kỳ tháng 9/2018 tăng 13,66%).Trong đó, dư nợ đối với DNNVV bán buôn và bán lẻ; sữa chữa ô tô, mô tô, xe máy và xe có động cơ khác đạt 464.190 tỷ đồng; dư nợ đối với DNNVV kinh doanh vận tải, kho bãi đạt 63.936 tỷ đồng; dư nợ đối với DNNVV hoạt động chuyên môn, khoa học và công nghệ đạt 11.197 tỷ đồng.
NHNN cho biết, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục triển khai các giải pháp tiền tệ, tín dụng nhằm đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vay vốn của các DNNVV; đồng thời, tiếp tục phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai đồng bộ các chính sách hỗ trợ DNNVV.
Để triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách của Chính phủ nhằm phát huy hơn nữa vai trò của DNNVV trong phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm, đòi hỏi phải có hệ thống các chính sách đồng bộ để khuyến khích và tạo điều kiện cho các DNNVV phát triển; đồng thời, cần có sự phối hợp nhịp nhàng từ các cơ quan, bộ ngành, hiệp hội và bản thân các doanh nghiệp, cụ thể:
Một là, các Bộ, ngành sớm hoàn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Hỗ trợ DNNVV, bảo đảm các chính sách hỗ trợ DNNVV được triển khai đồng bộ, có hiệu quả, nhằm tháo gỡ khó khăn trong việc tiếp cận vốn của DNNVV.
Hai là, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố tích cực triển khai có hiệu quả các chính sách hỗ trợ DNNNV quy định tại Luật hỗ trợ DNNVV và hướng dẫn của các Bộ, ngành trung ương. Phối hợp chặt chẽ với ngành ngân hàng trong việc triển khai chương trình kết nối ngân hàng-doanh nghiệp để cùng tháo gỡ khó khăn trong các lĩnh vực đất đai, thuế, cơ sở hạ tầng... khi doanh nghiệp tiếp cận vay vốn ngân hàng để phát triển sản xuất kinh doanh.
Ba là, các Hiệp hội ngành nghề cần nâng cao vai trò, tầm ảnh hưởng của mình để làm cầu nối cho các DNNVV tiếp cận với các TCTD; Đầu mối trong việc hỗ trợ cho các DNNVV về thông tin thị trường, các hoạt động xúc tiến thương mại, triển lãm và bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp thành viên.
Bốn là, TCTD xây dựng quy trình thu thập, khai thác thông tin về đánh giá tín nhiệm, hoạt động của khách hàng để nâng cao hiệu quả thẩm định và đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, qua đó tăng cường khả năng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản; Xây dựng các chương trình, gói tín dụng với lãi suất hợp lý cho DNNVV, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng; Đơn giản hóa thủ tục hành chính để tăng khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp.
Năm là, bản thân các DNNVV cũng phải tự hoàn thiện, tuân thủ quy định của pháp luật và chủ động cung cấp thông tin đầy đủ, trung thực để nâng cao uy tín đối với các tổ chức tín dụng. Tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng kiểm soát dòng tiền và tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá trình vay vốn.