Sáng 12/11, Quốc hội tiếp tục phiên chất vấn, trả lời chất vấn của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và đầu tư Nguyễn Chí Dũng, cùng với phần giải trình thêm của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và Bộ trưởng Bộ Tài chính liên quan đến việc nới trần nợ công, tăng bội chi ngân sách, giảm lãi suất và xây dựng các gói hỗ trợ.
Trả lời các phần tranh luận của đại biểu Quốc hội về kịch bản tăng nợ công và bội chi ngân sách, Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng một lần nữa khẳng định với các gói hỗ trợ phục hồi kinh tế, việc quan trọng đặt ra nếu không nới trần nợ công và trần bội chi thì sẽ không có nguồn lực để phục hồi và phát triển.
Tuy nhiên, ông cũng nhìn nhận nếu nới các chỉ tiêu này mà thực hiện không hiệu quả sẽ dẫn tới hệ lụy cho nền kinh tế, mất cân đối vĩ mô, cân đối lớn. “Vậy nới bao nhiêu là đủ, 1-2% hay nhiều hơn, nới ra rồi thì huy động bằng cách nào, xử lý vào đâu cho hiệu quả”, ông nêu vấn đề.
Theo ông Dũng, hiện nay các vấn đề này đang Bộ Kế hoạch - Đầu tư cùng Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước tính toán và chưa đưa ra kịch bản một cách cụ thể. Các kịch bản đã được xây dựng nhưng tạm thời chưa báo cáo Quốc hội tại kỳ họp này mà phải cần thời gian để tính toán kỹ lưỡng và báo cáo các cấp thẩm quyền trước khi đưa ra trình Quốc hội.
Có nguồn tiền rồi, liệu có hấp thụ được?
Tham gia giải trình về chính sách tài khóa trong thời gian tới, Bộ trưởng Tài chính Hồ Đức Phớc cho biết sẽ áp dụng linh hoạt các chính sách về thuế, thu chi ngân sách đảm bảo cho nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững.
Đối với chính sách thuế, Bộ trưởng Tài chính đề nghị Quốc hội, Chính phủ tiếp tục áp dụng các chính sách về giãn, hoãn thuế, phí như năm 2021; giảm thuế đối với giá xăng dầu lĩnh vực hàng không, cũng như giảm thuế VAT, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế các hộ sản xuất kinh doanh; miễn phạt tiền chậm nộp khi làm ăn thua lỗ.
Ngoài ra, Bộ trưởng Hồ Đức Phớc cho biết Bộ sẽ tập trung thu trên nền tảng số và sàn thương mại điện tử, phát hành hóa đơn điện tử để tránh hóa đơn giả, hoàn thuế trục lợi, trốn thuế... và khoản thu trong chuyển nhượng bất động sản, chống chuyển giá, trốn thuế.
Bộ trưởng Bộ Tài chính Hồ Đức Phớc - Ảnh: Quốc hội
Về vấn đề nợ công, ông Phớc nhắc lại, nếu tính theo GDP cũ, nợ công năm 2021 là 56,8%, vẫn dưới 60% nhưng vượt ngưỡng cảnh báo 55%. Dư nợ Chính phủ là 51,5% theo GDP cũ,
40,5% theo GDP đánh giá lại; như vậy nợ công năm 2021 khoảng 3,75 triệu tỷ, nợ Chính phủ 3,397 triệu tỷ.
"Chúng tôi ủng hộ các gói kích cầu để phát triển kinh tế, nhưng các gói này phải có hiệu quả để tăng thu ngân sách, giữ được bội chi ngân sách. Tăng bội chi ngân sách 2022, 2023 nhưng giảm các năm tiếp theo và làm nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững", ông nói.
Về thực hiện các gói kích cầu, theo ông Phớc, nếu bỏ ra mỗi năm 20.000 tỷ, hai năm 2022-2023 là 40.000 tỷ, thì với lãi suất hỗ trợ doanh nghiệp khoảng 4% thì huy động được khoảng 1 triệu tỷ bỏ vào nền kinh tế. Khoản này không làm tăng bội chi ngân sách, cũng không làm tăng nợ công vì nguồn này được lấy trong nguồn đầu tư chưa phân bổ 2021-2025.
Bộ trưởng Tài chính cũng cho biết đã tính đến việc huy động nguồn lực cho chương trình phục hồi kinh tế. Trong đó có việc phát hành trái phiếu Chính phủ để huy động khoảng 180.000 tỷ đồng tiền trong dân trong 2 năm. Như vậy mỗi năm tăng bội chi ngân sách 1%.
Tuy nhiên, ông đặt vấn đề khi nền kinh tế có nguồn tiền rồi, liệu có hấp thụ được tốt không và hấp thụ ở những lĩnh vực nào? Theo ông nguồn tiền nên tập trung vào các dự án đầu tư công, công trình trọng điểm, những lĩnh vực kinh tế tạo đột phá để tăng trưởng. Đồng thời, nên sớm lập các dự án để có thể sử dụng hiệu quả nguồn tiền trong các gói kích cầu.
Về công cụ chi ngân sách, tư lệnh ngành tài chính cho rằng trước mắt cần tiết kiệm chi thường xuyên mà chuyển sang chi đầu tư phát triển. Ông cho biết trong dự toán phân bổ ngân sách dự toán phân bổ cho các tỉnh, bộ ngành, Bộ Tài chính đã cắt giảm 10% so với định mức Thường vụ Quốc hội ban hành, trong quá trình điều hành tiếp tục cắt giảm khoảng 10% nữa. Tiết kiệm 50% chi tiếp khách, công tác phí trong nước và ngoài nước. Như vậy sẽ tiết kiệm một số khoản chi để tập trung đầu tư và chống dịch.
Sẽ tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất
Giải đáp các thắc mắc của đại biểu Quốc hội, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Nguyễn Thị Hồng cho biết, từ đầu năm 2020 khi dịch bệnh xảy ra, trong tổ chức điều hành về lãi suất, NHNN đã 3 lần giảm lãi suất điều hành với tổng mức giảm 1,5-2%/năm. Đây là mức giảm sâu so với các nước trong khu vực.
Bên cạnh đó, NHNN cũng đã chỉ đạo và kêu gọi các tổ chức tín dụng thực hiện giảm lãi suất và mặt bằng đã giảm khoảng 1,66%/năm so với trước dịch. Đến nay, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã giảm khoảng 30.000 tỷ đồng tiền lãi để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp và sẽ tiếp tục thực hiện giảm từ nay cho đến cuối năm. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng đã giảm hơn 2.000 tỷ đồng tiền phí cho các khách hàng.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Thị Hồng - Ảnh: VGP
Thống đốc NHNN cho biết nhiệm vụ của hoạt động quản lý tiền tệ phải thực hiện hai nhiệm vụ chính, là vừa điều hành để góp phần kiểm soát lạm phát, vĩ mô vừa phải đảm bảo an toàn, khả năng chi trả của hệ thống. Do đó, việc xem xét các công cụ chính sách trong thời gian tới, NHNN phải căn cứ trên hai mục tiêu này, đồng thời đảm bảo cân đối lớn của vĩ mô.
Theo Thống đốc NHNN để xác định còn dư địa giảm lãi suất nữa hay không, qua đánh giá thực trạng về hoạt động tiền tệ của ngân hàng và kinh tế vĩ mô, NHNN cho rằng mục tiêu kiểm soát lạm phát dưới 4% năm nay có thể đạt được. Tuy nhiên, trong năm 2022, rủi ro lạm phát đang có áp lực lớn.
Theo bà, khi nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi, giá cả hàng hóa đang có xu hướng gia tăng, một số mặt hàng như xăng dầu đã tăng 55% so với cuối năm trước. Các nước phát triển thì lạm phát đã tăng lên mức cao nhất trong lịch sử. Với nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, áp lực rủi ro lạm phát nhập khẩu rất lớn.
Về chính sách lãi suất, Thống đốc cho biết, các ngân hàng trung ương thế giới đang có xu hướng dừng chính sách nới lỏng tiền tệ. Hiện có tới 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới.
Đồng thời, nếu nhìn từ nhiệm vụ thứ hai của chính sách, nợ xấu của các tổ chức tín dụng cũng đang gia tăng. Các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực chứ không phải từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng các tổ chức cũng phải dùng nguồn lực để xử lý. Nếu nguồn lực của tổ chức tín dụng suy giảm sẽ ảnh hưởng tới hoạt động, tính an toàn của hệ thống. Bà cho rằng, bài học từ cuộc khủng hoảng 2008-2009 vẫn còn, nếu tính toán không cẩn thận, rủi ro lạm phát có thể quay trở lại.
Về phía Ngân hàng Nhà nước, Thống đốc cho biết sẽ tiếp tục chỉ đạo cố gắng tiết giảm chi phí hoạt động để giảm lãi suất. Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo an toàn hoạt động của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để tránh tác động dây chuyền.
Đồng thời NHNN sẽ tiếp tục phối hợp với các Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch - Đầu tư để tính toán gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, đối tượng hợp lý trên cơ sở vẫn đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát cũng như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.