Theo kế hoạch của Tập đoàn Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV), trong giai đoạn từ 2016-2020 sẽ phải nhập một lượng than lớn. Theo đó, kế hoạch nhập than được bắt đầu từ năm 2017 và tăng mạnh từ năm 2020, chủ yếu là than cung cấp cho các nhà máy nhiệt điện.
Cụ thể, lượng than nhập khẩu năm 2017 là 11,71 triệu tấn, 2018 là 20,972 triệu tấn, năm 2020 là 40,256 triệu tấn, năm 2025 là 70,331 triệu tấn, năm 2030 sẽ lên đến trên 100 triệu tấn.
https://vov.vn/kinh-te/thi-truong/ton-kho-than-tang-cao-nhung-van-phai-nhap-khau-752839.vov
Từ năm 2013, Việt Nam bắt đầu nhập khẩu than và sản lượng than nhập khẩu tăng lên theo từng năm. Theo quy hoạch của Chính phủ thông qua vào đầu năm 2016, số lượng than nhập khẩu về Việt Nam trong năm này mà Bộ Công Thương và TKV đưa ra là khoảng 3 triệu tấn than dành cho các nhà máy nhiệt điện. Nhưng đến hết 2016, thực tế con số này đã tăng lên hơn 4 lần, tức là 13,3 triệu tấn.
Giá nhập khẩu than bình quân năm 2017 là 105 USD/tấn, tăng 44,2% so với năm 2016. 3 thị trường nhập khẩu than lớn của Việt Nam là Indonesia, Australia và Liên bang Nga. Tổng lượng than nhập khẩu từ 3 thị trường này lên tới 12 triệu tấn, chiếm 83% tổng lượng nhập khẩu than của cả nước trong năm 2017.
Trong đó, nhập khẩu từ Indonesia là 6 triệu tấn, trị giá đạt 404,7 triệu USD, so với năm 2016 tăng 106,7% về lượng và tăng 171% về trị giá. Nhập khẩu từ thị trường Australia đạt 3,6 triệu tấn, trị giá đạt 469,7 triệu USD, so với năm 2016 giảm 7% về lượng nhưng lại tăng 45% về trị giá.
Trong một thời gian dài, Việt Nam luôn đứng ở vị trí đầu về xuất khẩu than, có những thời điểm, lượng than xuất khẩu đạt đến mức 50% sản lượng. Tuy nhiên, hiện Việt Nam đang rơi vào thực trạng thiếu nguồn than chất lượng cao, trong khi đó lượng than tồn kho đang ở mức trên 9 triệu tấn.
Các chuyên gia dự báo, do than trong nước sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu cho nhiệt điện và các hộ tiêu dùng khác, cộng với việc khai thác than bắt đầu gặp rất nhiều khó khăn, nên việc nhập khẩu than chắc chắn sẽ còn gia tăng trong thời gian tới./.