Phát triển mạnh mẽ trong hơn hai năm trở lại đây, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
Theo báo cáo "Triển vọng thị trường Trái phiếu Doanh nghiệp Việt Nam 2021" của Fiin Ratings, giá trị huy động TPDN của các công ty niêm yết đã vượt xa giá trị huy động từ thị trường cổ phiếu.
Các kênh huy động vốn của doanh nghiệp niêm yết
Năm 2020, TPDN phát hành mới đạt 173 nghìn tỷ đồng, tăng 27% so với cùng kỳ. Giá trị này gấp gần 7 lần so với huy động từ phát hành cổ phần, 26 nghìn tỷ đồng. Theo Fiin Ratings, đà tăng ấn tượng này do hai nguyên nhân chính:
Thị trường cổ phiếu nhiều biến động trong bối cảnh đại dịch, nhiều tác động chưa hoàn toàn được kiểm soát. Giá trị huy động từ thị trường cổ phiếu, bao gồm các thương vụ IPO và phát hành cổ phần suy giảm đáng kể so với năm 2019, giảm 79%.
Chủ trương giảm tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các ngân hàng thương mại và các quy định của ngân hàng Nhà nước về việc kiểm soát hạn mức tín dụng cho ngành bất động sản. Kênh trái phiếu đang trở thành nguồn vốn trung và dài hạn dần thay thế cho kênh tín dụng truyền thống.
Tại cuối quý 3/2020, dư nợ trái phiếu của các doanh nghiệp niêm yết thuộc ngành bất động sản chiếm 62% vay dài hạn và 45% tổng nợ vay.
Fiin Ratings cho rằng, xu hướng huy động vốn qua TPDN vẫn sẽ tiếp tục trong năm 2021 khi thị trường bất động sản chưa thực sự phục hồi như giai đoạn 2017 – 2019. Doanh nghiệp cần thêm vốn để tái khởi động hoạt động kinh doanh và tái cấu trúc cơ cấu tài chính trong điều kiện các tiêu chuẩn cho vay bị thắt chặt.
Cơ cấu nợ vay của doanh nghiệp bất động sản nhà ở niêm yết
Quay trở lại với việc huy động vốn của các doanh nghiệp, tại sao phương án phát hành cổ phần lại không được lựa chọn trong bối cảnh thị trường chứng khoán sôi động trong nửa sau của năm 2020?
Ông Nguyễn Quang Thuân, Tổng giám đốc Fiin Group, đơn vị phát hành báo cáo Fiin Ratings đưa ra một số lý do:
Thứ nhất, thị trường cổ phiếu sôi động nhưng thực tế biến động rất lớn trong năm qua. Do đó quyết định chào bán cổ phần có rủi ro thất bại vẫn rất cao.
Thứ hai, thị trường do người mua quyết định. Tiền "rẻ" và các nhà đầu tư tổ chức, chính là ngân hàng thừa thanh khoản đã tăng sở hữu trái phiếu doanh nghiệp trong khi bị hạn chế cấp tín dụng bất động sản. Thực tế, các ngân hàng đang ôm hơn 70% giá trị TPDN đang lưu hành, bao gồm cả doanh nghiệp chưa niêm yết.
Thứ ba, chi phí vốn cổ phần (Cost of Equity) đắt hơn nhiều so với huy động trái phiếu. Bất động sản có chi phí vốn cổ phần tối thiểu 18% theo mô hình CAPM (mô hình định giá tài sản vốn) đang được áp dụng và WACC (chi phí vốn bình quân) khoảng 15%, trong khi đó lãi suất trái phiếu chỉ từ 10 – 12%.
Thứ tư, chủ sở hữu chính của các doanh nghiệp không muốn pha loãng sở hữu của họ để thuận lợi cho các quyết định kinh doanh lớn, giảm được ý kiến và tranh cãi.
Thứ năm, thủ tục và chi phí giao dịch phát hành trái phiếu thấp hơn nhiều so với phát hành cổ phần. Mặt khác, trái phiếu kỳ hạn 3 – 5 năm nhưng khi bán được hàng có thể mua lại luôn. Thực tế nhiều trái phiếu được mua lại sau một năm.