Giá trị sổ sách vốn chủ sở hữu nhà nước của 19 doanh nghiệp giao "siêu uỷ ban" làm đại diện chủ sở hữu là trên 820 nghìn tỷ đồng, tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp gần 1,5 triệu tỷ đồng. Điều này tương đương Uỷ ban nắm giữ gần 50% giá trị vốn nhà nước và tài sản của khu vực DNNN.
Để quản lý tốt và phát triển số tài sản này, không đi vào những vết xe đổ thất thoát tiền của nhà nước, từng diễn ra trong quá khứ, phía CIEM đề xuất "siêu uỷ ban" cần xây dựng cơ sở dữ lớn, hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin và áp dụng kinh tế số để vận hành chức năng đại diện chủ sở hữu.
Điều này là rất cần thiết, Viện trưởng Nguyễn Đình Cung nhấn mạnh. Báo cáo của CIEM chỉ ra rằng dù dữ liệu thông tin đã trở thành nguồn lực quan trọng, hạ tầng công nghệ và hệ thống thông tin hiện đại là công cụ giúp quản lý đúng đắn, nhanh hơn nhưng ở Việt Nam, thông tin trong đầu tư, sử dụng vốn, hay về DNNN còn nhiều bất cập.
Theo đó, hiện tại vẫn chưa có cơ sở dữ liệu thống nhất, đầy đủ và cập nhật về vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp cũng như danh mục đầy đủ các doanh nghiệp có vốn đầu tư của chủ sở hữu nhà nước trên bình diện quốc gia cũng như trong phạm vi quản lý của từng cơ quan đại diện chủ sở hữu.
Đó là nguyên nhân khiến cơ quan đại diện chủ sở hữu không có đủ thông tin để giám sát, cảnh báo rủi ro và điều chỉnh chính sách kịp thời. Như vậy, hậu quả có thể bắt gặp là vốn nhà nước không đựợc tận dụng, thậm chí bị bỏ qua, gây lãng phí, đặc biệt tại doanh nghiệp đa sở hữu.
Do đó, nghiên cứu của CIEM chỉ ra rằng việc cần làm trước hết của Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp là xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu về doanh nghiệp trực thuộc với tất cả các loại thông tin đa dạng, cần thiết cho quản lý và hệ thống hạ tầng công nghệ có liên quan, áp dụng công cụ thuật toán, phân tích dữ liệu, kể cả áp dụng trí tuệ nhân tạo cho công tác dự báo và ra quyết định.
Về giải pháp kỹ thuật, CIEM cho rằng cần đầu tư xây dựng và vận hành trung tâm thông tin quản lý và giám sát từng danh mục đầu tư, nhất là thông qua hệ thống thông tin quản lý trực tuyến (MIS) kết nối với từng doanh nghiệp trực thuộc.
Hệ thống này đảm bảo yêu cầu tự động đánh giá và đối chiếu các chỉ số tài chính, hiệu quả của doanh nghiệp với kế hoạch và nguồn tài chính để Ủy ban theo dõi và cảnh báo thường xuyên cho doanh nghiệp, người đại diện tại doanh nghiệp.
Mặt khác, cần vận hành và "số hóa" hệ thống đo lường và đánh giá hiệu quả các chỉ tiêu giao cho doanh nghiệp thực hiện, trên cơ sở đó, thực hiện chế độ thưởng, phạt với từng doanh nghiệp, từng người quản lý do Ủy ban bổ nhiệm hoặc ủy quyền.
Ngoài ra, Uỷ ban còn cần xây dựng đội ngũ chuyên gia phân tích, đánh giá có chuyên môn và năng lực phù hợp để có thể đưa ra các quyết định kịp thời, hợp lý, trước hết là các phân tích cảnh báo, ngăn ngừa các nguy cơ gây thất thoát, mất vốn nhà nước, các dự án kém hiệu quả.