Theo Worldometers, tính đến 6h sáng ngày 17/3, thế giới ghi nhận 182.368 ca nhiễm virus corona chủng mới (SARS-CoV-2) gây dịch viêm đường hô hấp cấp Covid-19. Trong đó có 7.144 ca tử vong và 78.342 ca bình phục.
Malaysia phong tỏa toàn quốc vì Covid-19. Tại Việt Nam, tính đến tối ngày 16/3 số người dương tính với Covid-19 là 61.
Dịch Covid-19 bùng nổ đúng vào chu kỳ kinh tế toàn cầu dễ tổn thương
TS. Vũ Thành Tự Anh, chuyên gia đến từ Đại học Fulbright Việt Nam cho biết, dịch Covid-19 bùng nổ đúng vào giai đoạn dễ bị tổn thương của chu kỳ kinh tế toàn cầu: Tăng trưởng toàn cầu năm 2019 chỉ ở mức 2,9% - thấp nhất kể từ cuộc khủng hoảng 2008-2009. Kết quả hoạt động của hầu hết các nền kinh kế quan trọng cuối năm 2019 vừa thấp vừa bất định.
Theo đó, trong quý IV/2019, tăng trưởng của Mỹ chỉ đạt 2,1%, của Trung Quốc chỉ là 6% (thấp nhất trong 27 năm qua), tăng trưởng của Nhật Bản giảm 6,3%. Trong tháng 12/2019, sản lượng công nghiệp của Đức và Pháp đều tăng trưởng âm, lần lượt là -3,5% và -2,6%.
Ngay trong quý I/2020, kinh tế của Trung Quốc gần như đình trệ: Trong tháng 2, tiêu thụ than - chiếm khoảng 60% tiêu dùng năng lượng của quốc gia này giảm 38% so với cùng kỳ 2019. Chỉ số nhà quản trị mua hàng (PMI) tháng 2/2020 rơi tự do từ 50 xuống 35,7. Việc phong tỏa nhiều thành phố đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động vận chuyển, khiến cho nguyên vật liệu sản xuất bị ách tắc, nhiều công nhân Trung Quốc không thể trở về nơi làm việc sau Tết, khiến cho các chuỗi cung ứng bị gián đoạn nghiêm trọng.
Tính dễ bị tổn thương của nền kinh tế toàn cầu không chỉ thể hiện ở các chỉ số tăng trưởng, mà quan trọng hơn, nằm ở những vấn đề có tính cơ cấu của các nền kinh tế lớn. Mỹ, Nhật, Anh và nhiều nước G20 đang thâm hụt ngân sách nặng nề và nợ công đã ở mức rất cao. Đồng thời, lãi suất ở các nền kinh tế quan trọng nhất trong G20 đều đang rất thấp, thậm chí bằng 0 ở nhiều nước EU và âm ở Nhật Bản. Hệ quả là chính phủ có rất ít dư địa để can thiệp về tài khóa và tiền tệ nhằm kích thích nền kinh tế khi đại dịch toàn cầu hoành hành.
Nếu như báo cáo mới nhất (1/2020) của IMF về triển vọng kinh tế toàn cầu còn dự báo kinh tế thế giới sẽ bình ổn và phục hồi nhẹ trong năm 2020 và 2021 thì đến thời điểm hiện tại, các nhà kinh tế bắt đầu nói đến hai chữ "suy thoái".
Vị chuyên gia đến từ Đại học Fulbright Việt Nam khẳng định, để khắc phục nguy cơ suy thoái toàn cầu buộc phải có những giải pháp toàn cầu. Nhưng đáng tiếc, thế giới lại đang xung đột và chia rẽ sâu sắc. Đặc biệt, tình trạng mà một số nhà quan sát dự báo sẽ trở thành "chiến tranh lạnh mới" với sự mâu thuẫn về lợi ích chiến lược cốt lõi giữa Mỹ với Trung Quốc và Nga. Ở châu Âu, nước Anh đã ra khỏi EU và làm trầm trọng thêm sự chia rẽ của khối này.
Ngay trong phạm vi từng nước, bất đồng giữa các đảng phái cũng đang gây ra sự chia rẽ sâu sắc ở Mỹ, Anh, Pháp và nhiều nước khác. Gần đây nhất, cuộc chiến giá dầu giữa Nga và Saudi Arabia và nguy cơ leo thang xung đột quân sự ở Syria tiếp tục đổ thêm dầu vào lửa, khiến thiện chí và nỗ lực phối hợp toàn cầu để chống đại dịch cũng những hậu quả kinh tế của nó trở nên xa vời.
Tác động khác biệt "một trời, một vực" của SARS và Covid-19
Nhìn cận cảnh hơn, tác động khác biệt "một trời, một vực" đối với kinh tế toàn cầu của SARS và Covid-19, theo TS. Vũ Thành Tự Anh xuất phát từ các nguyên nhân chính sau:
Thứ nhất, so với Covid-19, phạm vi lây nhiễm của SARS tương đối hẹp (26 nước), rất tập trung (92% ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan), số lượng tử vong tổng cộng là 774 – chưa tới 12% số lượng tử vong do Covid-19 gây ra cho đến ngày 16/3/2020.
Hơn nữa, dịch SARS kết thúc trong vòng 2 quý, nhờ vậy kinh tế toàn cầu đã hồi phục nhanh chóng theo hình chữ V. Trái lại, Covid-19 xảy ra cho đến nay đã gần một quý, tâm điểm lan truyền di động (đợt 1 là Trung Quốc, đợt 2 là Hàn Quốc và Nhật Bản, đợt 3 là Ý, châu Âu và Mỹ v.v.), hết đợt này đến đợt khác nên kinh tế toàn cầu liên tục ở trạng thái "đóng cửa" từng phần và hết sức bấp bênh.
Thứ hai, khi SARS nổ ra và tập trung chủ yếu ở Trung Quốc, Hồng Kông và Đài Loan, các nền kinh tế này – đặc biệt là Trung Quốc chưa quá quan trọng với kinh tế toàn cầu. Khi ấy kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc mới đứng thứ 5 thế giới (sau Mỹ, Đức, Nhật, Pháp) và chỉ chiếm 5% trong tổng xuất khẩu toàn cầu. Ngày nay, Trung Quốc đã trở thành nước xuất khẩu lớn nhất, chiếm tới 13% xuất khẩu toàn cầu.
Không những thế, các GVCs hiện chiếm khoảng 75% tăng trưởng thương mại toàn cầu, trong đó Trung Quốc đóng vai trò quan trọng nhất. Vì vậy, dịch Covid-19 ở Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục gây ra cú sốc to lớn cho tổng cung và sự gián đoạn nghiêm trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Tương tự về phía cầu, Trung Quốc hiện là nước nhập khẩu quan trọng nhất đối với hầu hết các nền kinh tế ở châu Á và là nhà nhập khẩu lớn thứ 3 của Hoa Kỳ. Khách du lịch Trung Quốc trong năm 2018 tiêu 277 tỷ USD cho du lịch nước ngoài. Có thể nói, Trung Quốc đang tạo ra một lượng cầu bên ngoài to lớn cho rất nhiều nền kinh tế.
Thứ ba, khác với SARS và các đại dịch toàn cầu gần đây, lần này Covid-19 phát tán mạnh nhất ở các nền kinh tế lớn nhất.
Thống kê (bảng 1) cho thấy, 10 nền kinh tế lớn nhất cùng nhau tạo ra 66% GDP, 69% sản lượng công nghiệp chế biến – chế tạo (CB-CT), 46% xuất khẩu, và 56% xuất khẩu CB-CT toàn cầu. 10 quốc gia này cũng chiếm tới 71% số ca nhiễm và 79% số ca tử vong do Covid-19. "Rõ ràng là với tầm quan trọng của mình, khi các quốc gia này viêm phổi, cả thế giới sẽ lao đao. Câu hỏi lớn đặt ra là liệu Covid-19 có gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu trong năm 2020 hay không?", TS. Vũ Thành Tự Anh đề cập.