Tuy nhiên, sang năm 1992, dòng vốn FDI vào Việt Nam đã vượt qua Philippines và xếp thứ 5/6 các quốc gia trong khối ASEAN-6. Lúc này, Việt Nam thu hút được khoảng 174 triệu USD, cao hơn Philippines (228 triệu USD). Như vậy, sau 5 năm, Việt Nam chỉ nhảy một bậc trong bảng xếp hạng các quốc gia thu hút dòng vốn FDI lớn nhất trong khối ASEAN-6.
Sau đó, đến năm 1994, Việt Nam nhảy thêm một bậc nữa trong bảng xếp hạng. Cụ thể, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam (1,94 tỷ USD) đã vượt qua Philippines (1,59 tỷ USD) và Thái Lan (1,37 tỷ USD). Theo đó, Việt Nam đã nhảy 2 bậc trong bảng xếp hạng các quốc gia thu hút dòng vốn FDI lớn nhất trong khối ASEAN-6 sau 7 năm.
Đến năm 2001, dòng vốn FDI vào Việt Nam lần đầu tiên xếp thứ 3/6 trong bảng xếp hạng với vốn FDI đạt 1,3 tỷ USD, xếp sau Singapore (17,01 tỷ USD) và Thái Lan (5,07 tỷ USD). Do đó, sau 14 năm, Việt Nam từ vị trí thứ 6/6 đã vượt lên vị trí thứ 3 trong bảng xếp hạng các quốc gia thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất trong khối ASEAN-6.
Thu hút vốn đầu tư FDI các nước trong khối ASEAN-6 giai đoạn 1987-2020. Nguồn: WB.
Giai đoạn 2001-2020, thứ hạng các quốc gia trong bảng xếp hạng thu hút dóng vốn FDI có sự thay đổi liên tục. Trong đó, Singapore là nước liên tục dẫn đầu về thu hút dòng vốn FDI trong nhiều năm.
Cùng với đó, Việt Nam có 2 lần xếp thứ 2 trong bảng xếp hạng các quốc gia thu hút dòng vốn FDI lớn nhất trong khối ASEAN-6 với vốn FDI đạt 9,58 tỷ USD vào năm 2008 và 7,6 tỷ USD vào năm 2009.
Từ năm 2015-2021, Việt Nam liên tục giữ vững vị trí thứ 3/6 trong bảng xếp hạng quốc gia thu hút dòng vốn FDI nhiều nhất trong khối ASEAN-6.
Trong giai đoạn 1987-2020, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam đã tăng từ 10,36 triệu USD lên tới 15,8 tỷ USD.
Thu hút vốn đầu tư FDI của Việt Nam giai đoạn 1987-2020. Nguồn: WB.
Qua đó, dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam đã tăng 1.524 lần sau 33 năm. Việt Nam là nước có mức tăng lớn nhất về thu hút dòng vốn FDI trong giai đoạn 1987-2020. Các quốc gia khác đều có sự cải thiện nhưng chậm hơn như: Indonesia (gấp 49,18 lần), Singapore (gấp 26,32 lần), Philippines (gấp 22 lần) và Malaysia (gấp 10,26 lần).
Theo Ngân hàng Thế giới (WB), dự liệu FDI các nước trên thế giới do WB báo cáo thường khác với các báo cáo khác vì sự khác biệt về nguồn, cách phân loại nền kinh tế, phương pháp được sử dụng để điều chỉnh và phân tách thông tin được báo cáo. Do đó, dữ liệu về dòng vốn FDI vào các nước của WB sẽ khác so với dữ liệu Tổng cục Thống kê các nước công bố.
Tính đến nay, hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ có đầu tư tại Việt Nam. Đáng chú ý, đầu tư của một số đối tác lớn như Singapore, Nhật Bản và Hàn Quốc đều tăng lên hàng năm. Làn sóng FDI có khuynh hướng tập trung vào các ngành nghề hàm lượng chất xám cao như công nghiệp phần mềm, điện tử tin học, dược phẩm, cơ khi chính xác.
Trên thực tế, Việt Nam có một số điểm mạnh trong thu hút FDI điển hình như: tình hình an ninh, chính trị ổn định; vị trí địa lý thuận lợi lực lượng lao động dồi dào, thể chế, luật pháp và sự minh bạch của Việt Nam dần được hoàn thiện gắn với hội nhập.
Do đó, Việt Nam không những tạo điều kiện cho các nhà đầu tư yên tâm hoạt động lâu dài mà còn giúp các doanh nghiệp tham gia chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu một cách thuận lợi.