Theo báo cáo phân tích mới đây của Chứng khoán Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (VCBS), các chuyên gia cho rằng triển vọng các mảng kinh doanh của Tập đoàn Masan (MSN) sẽ không quá tích cực trong năm 2023 trong bối cảnh chi tiêu và sức mua nhìn chung giảm.
Đối với Masan Consumer (MCH), theo VCBS, năm 2023, sức mua thực tế giảm cùng rủi ro lạm phát cao là yếu tố then chốt tác động đến triển vọng của các doanh nghiệp bán lẻ - tiêu dùng như MCH. Tuy danh mục sản phẩm chủ yếu là FMCG và thực phẩm thiết yếu, MCH vẫn sẽ chịu tác động do lạm phát sẽ khiến người tiêu dùng thuộc nhóm thu nhập trung bình có xu hướng tìm tới những nhãn hiệu có giá thấp hơn. Xu hướng này đang đi ngược với chiến lược cao cấp hóa của MCH.
Trong 2 năm 2023-2024, ngành thực phẩm tiện lợi, gia vị và thịt chế biến sẽ là mũi nhọn tăng trưởng doanh thu của MCH nhờ vào (1) Lợi thế cạnh tranh của MCH về sản phẩm đa dạng và liên tục cải tiến (2) Hệ thống phân phối sẵn có và ngày càng mở rộng của WCM (3) Thị trường còn nhiều dư địa, đặc biệt là mảng thịt chế biến với quy mô 2,4 tỷ USD năm 2027 và hiện chưa có đối thủ thống trị thị trường.
Dù vậy, biên lợi nhuận gộp sẽ khó có thể hồi phục ngay trong 2023 do áp lực chi phí đầu vào và lạm phát kì vọng vẫn còn ở phía trước.
Đối với WinCommerce (WCM), trong năm 2022, WCM đã có nhiều thay đổi đáng kể, cụ thể như mở mới 477 cửa hàng Winmart+ và 4 siêu thị Winmart, đứng thứ nhất về số lượng cửa hàng và hiệu quả hoạt động tại thị trường Việt Nam. Bên cạnh đó, công ty đã cho ra mắt 50-70 cửa hàng WIN LIFE theo mô hình mới, tích hợp sản phẩm từ WinMart (nhu yếu phẩm), Techcombank (dịch vụ tài chính), Phúc Long (trà và cà phê), Dr. WIN (chăm sóc sức khỏe) và Reddi (dịch vụ viễn thông). Doanh thu tháng/m2 của các cửa hàng theo mô hình mới này đã gia tăng xấp xỉ 20%.
VCBS lạc quan với triển vọng tăng trưởng doanh thu của WCM trong 2023- 2024 nhờ kế hoạch mở rộng mạnh mẽ được giữ vững và tiềm năng của mô hình cửa hàng tiện lợi cũng đưa ra dự phóng WCM sẽ mở từ 600-800 cửa hàng mới mỗi năm. Tuy nhiên, để thúc đẩy tốc độ mở rộng, WCM cũng gia tăng nhiều chi phí bán hàng và quản lý doanh nghiệp, VCBS cho rằng WCM vẫn chưa thể có lãi ròng trong 2023.
Masan High-Tech Materials (MSR) được đánh giá khả quan nhờ giá hàng hóa giữ ở mức cao, tuy nhiên lợi nhuận ròng có thể bị kìm hãm do chi phí tài chính tăng cao. Trong 2022, giá APT (Vonfram) tăng 23%, Bitsmuth tăng 7%, Coban tăng 41% đã giúp doanh thu và lợi nhuận gộp của MSR tăng trưởng mạnh mẽ. Bên cạnh yếu tố thuận lợi về giá đầu ra, MSR cũng thành công trong việc cải thiện hiệu quả khai thác, chế biến vonfram và làm chủ công nghệ tại H.C.Starck.
Trong 2023, VCBS cho rằng giá APT (Tungsten) sẽ tiếp tục neo ở mức cao khi triển vọng nhu cầu đối với vonfram kì vọng sẽ vượt nguồn cung, đặc biệt khi Trung Quốc mở cửa trở lại dự kiến vào Q2/2023, giá Florit cũng được kì vọng sẽ tiếp tục duy trì quanh mức hiện tại hoặc tăng nhẹ. Ngoài ra, việc hợp tác mới với Nybolt có thể giúp MSR bước chân vào thị trường pin xe điện tiềm năng.
Masan MeatLife (MML) dù tăng trưởng nhờ mở rộng mạng lưới phân phối qua WCM nhưng vẫn khó đem về lợi nhuận sau thuế. KQKD của MML đã có một số cải thiện tích cực trong Q3/2022 nhờ gia tăng mạng lưới phân phối cho sản phẩm thịt qua Winmart và giá thịt heo cao hơn. Theo VCBS, dư địa tăng trưởng của MML còn rất nhiều chưa kể đến khả năng mở rộng quy mô 600-800 cửa hàng/năm của WCM. VCBS dự phóng doanh thu MML sẽ tăng trưởng tích cực khoảng 30%/năm trong hai năm tới.
Tuy nhiên về tỷ suất lợi nhuận, MML có biến động rất lớn trong từng mảng kinh doanh phụ thuộc vào biến động giá nông sản. Khi giá thịt tăng sẽ giúp biên LNG của mảng thịt gà và heo trang trại mở rộng, tuy nhiên lại tác động tiêu cực đến mảng thịt mát do heo hơi vốn là nguyên vật liệu cho sản xuất đầu vào. VCBS cho rằng MML vẫn chưa thể đóng góp lợi nhuận ròng cho MSN.
Theo VCBS, cấu trúc nợ vay của MSN đến cuối tháng 9/2022 khá cân bằng với tổng nợ là 60.931 tỷ đồng, trong đó TPDN chiếm 56% (33.898 tỷ đồng) và vay ngân hàng chiếm 43,8% (26.741 tỷ đồng). Vay ngắn hạn là 40.144 tỷ đồng và vay dài hạn là 20.700, trong đó nợ đến hạn trong vòng 12 tháng là 26.167 và dư nợ bằng đồng USD là khoảng 12.368 tỷ đồng.
Về dòng tiền, VCBS cho rằng MSN sẽ không gặp vấn đề lớn. Tại BCTC Q3, nợ dài hạn đến hạn trả trong vòng 12 tháng của MSN là 26.167 tỷ đồng, trong đó tiền và tương đương tiền cuối kì là 7.724 tỷ đồng, cùng với khoảng 16.500 tỷ đồng mới huy động tháng 11/2022 (vay 600 triệu USD và phát hành 1.700 tỷ đồng trái phiếu bằng VND), MSN cần chuẩn bị lượng tiền mặt khoảng 8.000 tỷ đồng để đảm bảo thanh toán các khoản nợ đến Q3/2023. Ước tính này chưa bao gồm số tiền cần cho đầu tư TSCĐ, tuy nhiên với khả năng huy động vốn của MSN, VCBS cho rằng đây sẽ không phái thách thức lớn.