Nhu cầu từ các thị trường Bắc Mỹ phục hồi và tăng mạnh, thúc đẩy sản lượng xuất khẩu tôn mạ tăng và bù đắp mức tiêu thụ yếu ở nội địa trong tháng 7 như. Các công ty sản xuất tôn mạ hàng đầu như Hoa Sen (HSG), Nam Kim (NKG) đều ghi nhận sản lượng xuất khẩu tốt.
Cụ thể, sản lượng xuất khẩu của các công ty tôn mạ Việt Nam đạt 300.000 tấn trong tháng 7, tăng 6% so với tháng 6/2021. Trong khi đó, các biện pháp kiểm soát dịch ở miền Nam và một số thành phố lớn đã ảnh hưởng tiêu cực đến nhu cầu tiêu thụ trong nước khi sản lượng tiêu thụ giảm xuống còn 127.700 tấn trong tháng 7, giảm 35% so với cùng kỳ năm 2020. Tổng sản lượng tiêu thụ tôn mạ đạt khoảng 430.000 tấn trong tháng 7, giảm nhẹ nhưng vẫn ở mức cao.
Điểm tích cực, các công ty tôn mạ hàng đầu ghi nhận sản lượng xuất khẩu tăng mạnh. Trong đó, HSG đã bán 158.000 tấn tôn mạ trong tháng 7, xấp xỉ mức 155.000 tấn trong tháng 6. Trong đó, sản lượng xuất khẩu tăng từ 102.000 tấn trong tháng 6 lên 123.000 tấn trong tháng 7. Sản lượng xuất khẩu của NKG đạt 62.000 tấn trong tháng 7, ổn định so với mức 63.500 tấn trong tháng 6.
Trên thị trường, sự lạc quan về xuất khẩu đã và đang phản ánh vào giá, cổ phiếu NKG và HSG ghi nhận những phiên tăng trưởng trong tuần giao dịch trở lại đây, hút dòng tiền mạnh. Trong đó, HSG chốt phiên 9/9 tại mức 45.000 đồng/cp, tăng hơn 36% từ mức đáy thiết lập hồi giữa tháng 7/2021, thanh khoản bình quân xấp xỉ 20 triệu cổ phiếu/phiên. Hay NKG cũng tăng gần 65% thị giá kể từ cuối tháng 7/2021, thanh khoản cũng đạt hàng triệu đơn vị/phiên, hiện giao dịch tại mức 41.650 đồng/cp.
Trong báo cáo mới nhất, Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho rằng sản lượng xuất khẩu tôn mạ sang châu Âu sẽ ổn định ở mức cao cho đến cuối năm 2022 nhờ các chính sách thương mại thuận lợi và nhu cầu ngày càng tăng.
Thứ nhất, Việt Nam có lợi thế hơn so với Thổ Nhĩ Kỳ, Hàn Quốc và Ấn Độ nhờ các chính sách thương mại. Hàn Quốc và Ấn Độ, các đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam, bị áp đặt hạn ngạch 170.000 tấn/năm và 210.000 tấn/năm.
Trong khi đó, tôn mạ Thổ Nhĩ Kỳ mất lợi thế cạnh tranh khi phải chịu mức thuế chống bán phá giá 4,7-7,3% lên thép cán nóng kể từ tháng 4. Hạn ngạch nhập khẩu tôn mạ kim loại (4A) của EU dành cho Việt Nam và các nước khác là khoảng 2 triệu tấn/năm trong ba năm tới. Trong quý đầu năm 2021, Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 300.000 tấn tôn mạ kim loại, chủ yếu là tôn mạ kẽm. Do đó, vẫn còn dư địa tăng trưởng cho các nhà sản xuất tôn mạ của Việt Nam.
Về nhu cầu, tiêu thụ thép của EU được WSA dự báo sẽ tăng 10,2% so với cùng kỳ trong năm 2021 và 4,8% vào năm 2022 nhờ nhu cầu phục hồi sau đại dịch.
Mặt khác, chi phí sản xuất thấp hơn ở Việt Nam có thể hỗ trợ lợi nhuận xuất khẩu tôn mạ trong trung hạn. Trong giai đoạn 2021-2022, giá điện và carbon cao sẽ khiến chi phí sản xuất thép ở châu Âu cao hơn ít nhất 135-155 USD/tấn so với Việt Nam. Hiện tại, giá phát thải carbon vào khoảng 60 USD/tấn, và một tấn thép sản xuất từ lò BOF sẽ thải ra 1,85 tấn CO2. Bên cạnh đó, thép sản xuất từ lò EAF chiếm 40% sản lượng thép ở châu Âu và có giá thành sản xuất cao hơn từ 15%-20% so với công nghệ BOF. Trong ngắn hạn, chênh lệch giá HRC giữa EU và Việt Nam ở mức cao khoảng 300-550 USD/tấn có thể mang lại biên lợi nhuận gộp 19-22% trong 2 quý cuối năm.
Các nhà xuất khẩu tôn mạ trong nước có thể đối mặt với nhiều thách thức hơn vào năm 2023 do cơ chế biên giới carbon ở EU có thể được áp dụng, điều này sẽ làm mất khả năng cạnh tranh về giá của Việt Nam. VDSC kỳ vọng sản lượng xuất khẩu tôn mạ và lợi nhuận sẽ giảm mạnh vào năm 2023.
Ngược lại, Chỉ thị 16 đang được áp dụng ở miền Nam, nơi chiếm 34% sản lượng tiêu thụ thép xây dựng. Do đó, hầu hết các hoạt động xây dựng đều bị tạm dừng, dẫn đến sản lượng tiêu thụ trong tháng 7 thấp. Tiêu thụ thép xây dựng đạt khoảng 770.000 tấn trong tháng 7, giảm 10% so với cùng kỳ năm ngoái. Tiêu thụ ống thép thậm chí còn giảm mạnh hơn còn 143.500 tấn, giảm 41%. Do diễn biến dịch phức tạp, các biện pháp phòng dịch tiếp tục kéo dài trong tháng 8, khiến tiêu thụ thép xây dựng và ống thép vẫn ở mức thấp.