Cụ thể, tính đến 20/02/2023, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt gần 3,1 tỷ USD, giảm 38% so với cùng kỳ năm 2022. Tổng vốn đầu tư đăng ký giảm do vốn điều chỉnh giảm mạnh. Trong khi đó, vốn đầu tư mới và GVMCP vẫn tăng so với cùng kỳ.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 39 tỉnh, thành phố trên cả nước trong 2 tháng đầu năm 2023. Bắc Giang dẫn đầu với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 824,3 triệu USD, chiếm hơn 26,6% tổng vốn đầu tư đăng ký và tăng hơn 8,4 lần so với cùng kỳ năm 2022. TP Hồ Chí Minh xếp thứ hai với 103 dự án mới, tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 369,1 triệu USD, chiếm hơn 11,9% tổng vốn đầu tư cả nước. Tiếp theo lần lượt là Bình Dương, Quảng Ninh, Đồng Nai,…
Tính lũy kế đến ngày 20/2/2023, cả nước có 36.611 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký hơn 442,3 tỷ USD. Vốn thực hiện lũy kế của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt hơn 267,5 tỷ USD, bằng 62,5% tổng vốn đầu tư đăng ký còn hiệu lực.
Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với gần 262,9 tỷ USD, chiếm 59,4% tổng vốn đầu tư. Tiếp theo là các ngành kinh doanh bất động sản với gần 66,5 tỷ USD (chiếm 15% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với hơn 38,3 tỷ USD (chiếm 8,7% tổng vốn đầu tư).
Theo đối tác đầu tư, hiện có 142 quốc gia, vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam. Trong đó, đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký hơn 81,3 tỷ USD (chiếm 18,4% tổng vốn đầu tư). Singapore đứng thứ hai với gần 72,1 tỷ USD (chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư). Tiếp theo lần lượt là Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông.
Theo địa bàn, nhà đầu tư nước ngoài đã có mặt ở tất cả 63 tỉnh, thành phố trong cả nước. Trong đó, TP Hồ Chí Minh vẫn là địa phương dẫn đầu trong thu hút đầu tư nước ngoài với hơn 56,3 tỷ USD (chiếm 12,7% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là Bình Dương với hơn 39,6 tỷ USD (chiếm gần 9% tổng vốn đầu tư); Hà Nội với gần 38,9 tỷ USD (chiếm gần 8,8% tổng vốn đầu tư).
Top 10 tỉnh, thành có lũy kế tổng vốn FDI cao nhất cả nước tính đến 20/2/2023 gồm có: TP. Hồ Chí Minh (56,35 tỷ USD), Bình Dương (39,65 tỷ USD), Hà Nội (38,85 tỷ USD), Đồng Nai (35,46 tỷ USD), Bà Rịa - Vũng Tàu (33,32 tỷ USD), Hải Phòng (25,37 tỷ USD), Bắc Ninh (23,43 tỷ USD), Thanh Hóa (14,85 tỷ USD), Long An (12,97 tỷ USD), Hà Tĩnh (12,02 tỷ USD).
Xét trong 6 vùng kinh tế, Đông Nam Bộ là vùng có lũy kế tổng vốn FDI nhiều nhất tính đến 20/2/2023. Cụ thể, lũy kế tổng vốn FDI đổ vào vùng Đông Nam Bộ đạt khoảng 177,97 tỷ USD, chiếm 40,42% lũy kế tổng vốn FDI của cả nước. Trong đó, TP. HCM là địa phương có lũy kế tổng vốn FDI nhiều nhất trong vùng Đông Nam Bộ.
Lũy kế tổng vốn FDI vào 6 vùng kinh tế tính đến tháng 2/2023. Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Sau vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng đứng thứ hai với lũy kế tổng vốn FDI đạt 133,51 tỷ USD, chiếm 30,32% lũy kế tổng vốn FDI của cả nước tính đến 20/2/2023. Trong các địa phương thuộc vùng Đồng bằng sông Hồng, Hà Nội là địa phương có lũy kế tổng vốn FDI nhiều nhất.
Đứng ở vị trí thứ 3 là vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung với lũy kế tổng vốn FDI đạt 65,16 tỷ USD, chiếm 14,8% lũy kế tổng vốn FDI của cả nước tính đến 20/2/2023. Thanh Hóa là tỉnh có có lũy kế tổng vốn FDI nhiều nhất trong vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung.
Như vậy, lũy kế tổng vốn FDI vào vùng Đông Nam Bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng và vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung chiếm hơn 85% lũy kế tổng vốn FDI của cả nước tính đến 20/2/2023.
Vùng Đồng bằng sông Cửu Long, vùng Trung du và miền núi phía Bắc, vùng Tây Nguyên có lũy kế tổng vốn FDI đạt lần lượt là 35,64 tỷ USD; 26,21 tỷ USD và 1,83 tỷ USD tính đến 20/2/2023.
Trong vùng Đồng bằng sông Cửu Long, Long An là tỉnh có lũy kế tổng vốn FDI nhiều nhất. Trong khi đó, Thái Nguyên là tỉnh có lũy kế tổng vốn FDI nhiều nhất trong vùng Trung du và miền núi phía Bắc.