Trong đó, nhóm nông sản chính ước đạt gần 5,8 tỷ USD, giảm 4,5%; lâm sản chính đạt 3,4 tỷ USD, tăng 3,9%; thủy sản ước đạt 2,2 tỷ USD, giảm 10%; chăn nuôi ước đạt 150 triệu USD, giảm 23,8%.
Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản tháng 4/2020 ước đạt 2,9 tỷ USD, giảm 16,9% so với tháng 4/2019 và giảm 18,9% so với tháng 3/2020. Trong đó, giá trị xuất khẩu nhóm nông sản chính đạt gần 1,47 tỷ USD (giảm 14,7%), lâm sản chính khoảng 683 triệu USD (giảm 24,0%), thủy sản đạt 563 triệu USD (giảm 10,8%) và chăn nuôi đạt 41 triệu USD (giảm 27,7%).
Giữa tháng 4/2020, Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Hà Công Tuấn cho biết, đối với thị trường xuất khẩu, đến tháng 4, khoảng 80% các đơn hàng bị tạm dừng, tạm ngưng, chưa tìm được đơn hàng mới.
Các thị trường xuất khẩu lớn như Hoa Kỳ quý I/2020 chiếm 51% tổng kim ngạch xuất khẩu gỗ, EU khoảng gần 9% đã gần như đóng băng; các thị trường Nhật Bản chiếm 12%, Hàn Quốc 7-8% cũng chỉ có lác đác đơn hàng.
Riêng thị trường Trung Quốc chiếm 10%; trong đó chủ yếu xuất khẩu 90% là sản phẩm dăm gỗ, trong những tháng đầu năm do ảnh hưởng của dịch, giờ mới bắt đầu được phục hồi, nhưng cũng cần một thời gian nữa mới có thể bình thường.
"Tình hình sản xuất của ngành chế biến, xuất khẩu gỗ có thể nói là ngừng trệ nghiêm trọng, do không có đơn hàng nên các doanh nghiệp buộc phải tạm dừng sản xuất và cho lao động nghỉ. Hiện đã có nhiều doanh nghiệp cho nghỉ 45 – 80% số lao động hoặc giãn thời gian làm việc.
Qua khảo sát bước đầu ở 130 doanh nghiệp lớn, bình quân mỗi doanh nghiệp trong quý I thiệt hại 25 tỷ đồng; tổng thiệt hại của các doanh nghiệp này từ 3.000 – 5.000 tỷ đồng" – Thứ trưởng Hà Công Tuấn nhấn mạnh.
Do ảnh hưởng dịch Covid-19, hầu hết các mặt hàng xuất khẩu đều giảm kim ngạch như: cao su đạt 383 triệu USD (giảm 31,1%), chè đạt 53 triệu USD (giảm 14,1%), hồ tiêu đạt 249 triệu USD (giảm 12%), quả đạt 952 triệu USD (giảm 19,6%), cá tra đạt 420 triệu USD (giảm 31,9%), tôm đạt 748 triệu USD (giảm 11,8%)…
Ở chiều tăng có các mặt hàng: cà phê, hạt điều, rau, gỗ và sản phẩm gỗ, quế, mây tre... Cụ thể: giá trị xuất khẩu cà phê đạt 1,1 tỷ USD (tăng 1,5%); hạt điều đạt 948 triệu USD (tăng 4,2%); rau đạt 203 triệu USD (tăng 5,0%); gỗ và sản phẩm gỗ đạt 3,22 tỷ USD (tăng 3,5%); mây, tre, cói thảm đạt 162 triệu USD (tăng 11,8%).
Về thị trường xuất khẩu, trong 4 tháng đầu năm 2020, Trung Quốc vẫn là thị trường chiếm thị phần lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu đạt gần 2,8 tỷ USD, giảm 17,7% so với cùng kỳ và chiếm 23,4% thị phần.
Tiếp đến là Hoa Kỳ ước đạt 2,78 tỷ USD, giảm 13,9% so với cùng kỳ và chiếm 23,33% thị phần. Thị trường EU ước đạt 1,3 tỷ USD, giảm 1,9% và chiếm 10,75% thị phần. Xuất khẩu sang Nhật Bản đạt gần 1,1 tỷ USD, tăng 2,9%, chiếm 9,0% thị phần. Xuất khẩu sang các nước ASEAN đạt gần 1,3 tỷ USD, tăng 7,1% và chiếm 10,49% thị phần.