Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, trong 10 ngày đầu tháng 5/2019, giá sắn nguyên liệu trong nước giảm nhẹ do nhu cầu yếu.
Tại Tây Ninh, giá sắn thu mua tại máy dao động quanh mức 2.600 – 2.800 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg so với cuối tháng 4/2019. Tại Kon Tum, giá sắn thu mua tại nhà máy dao động quanh mức 2.300 – 2.500 đồng/kg, giảm 50 đồng/kg so với cuối tháng 4/2019.
Hiện nay đang trong thời điểm nắng nóng, theo quy luật hàng năm, nhu cầu sử dụng tinh bột sắn cho sản xuất thực phẩm tại Trung Quốc giảm mạnh. Tuy nhiên, lượng tồn kho của các nhà máy Việt Nam vụ 2018 - 2019 không còn nhiều. Do đó sẽ không có hiện tượng dư cung cho tới vụ mới 2019 - 2020.
Trong khi đó, mức thuế VAT sản phẩm sắn tại Trung Quốc giảm sẽ thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu chính ngạch qua các cảng biển Trung Quốc và buộc các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tinh bột sắn qua đường biên mậu phải điều chỉnh giá phù hợp.
Hiện tại, các đơn vị kinh doanh sắn lát của Việt Nam đang chờ thủ tục đăng ký danh sách xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc. Nhu cầu sử dụng sắn lát từ các nhà máy phía Trung Quốc giảm mạnh, dẫn đến xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam khá thấp. Các nhà máy Việt Nam hầu hết chào bán lượng hàng đã sản xuất trước đó, một số ít chạy máy sản xuất khi có đơn hàng đặt mới, mức giá xuất khẩu trong khoảng 435 - 440 USD/tấn FOB - cảng thành phố Hồ Chí Minh.
Về tình hình xuất khẩu, theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn tháng 4/2019 đạt 240,13 nghìn tấn, trị giá 95,58 triệu USD, giảm 11,3% về lượng và giảm 9,1% về trị giá so với tháng 3/2019; so với cùng kỳ năm 2018 tăng 23,5% về lượng và tăng 17,2% về trị giá; giá xuất khẩu bình quân giảm 5,1% so với cùng kỳ năm 2018 xuống còn 398,03 USD/tấn.
Lũy kế 4 tháng đầu năm 2019, lượng sắn và các sản phẩm từ sắn xuất khẩu đạt 917,52 nghìn tấn, trị giá 351,78 triệu USD, giảm 15,5% về lượng và giảm 4,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu bình quân đạt 383,07 USD/tấn, tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Lượng sắn xuất khẩu trong tháng 4/2019 đạt 43,54 nghìn tấn, trị giá 10,69 triệu USD, giảm 29,7% về lượng và giảm 20,3% về trị giá so với tháng 3/2019, nhưng tăng 19,7% về lượng và tăng 12,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu bình quân đạt 216,5 USD/tấn, giảm 6,3% so với cùng kỳ năm 2018. Tính chung 4 tháng đầu năm 2019, lượng sắn xuất khẩu đạt 198,52 nghìn tấn, trị giá 39,76 triệu USD, giảm 57,9% về lượng và giảm 59,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu bình quân đạt 200,26 USD/tấn, giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2018.
Nhìn chung tháng 4/2019, xuất khẩu sắn và sản phẩm từ sắn sang hầu hết các thị trường tăng so với tháng 4/2018, trừ thị trường Malaysia. Trong đó, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang Trung Quốc đạt 215,85 nghìn tấn, trị giá 86,54 triệu USD, tăng 20,4% về lượng và tăng 17,3% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu trung bình ở mức 400,93 USD/tấn, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm 2018. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang Trung Quốc đạt 818,27 nghìn tấn, trị giá 313,51 triệu USD, giảm 16,4% về lượng và giảm 3,5% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu bình quân ở mức 383,13 USD/tấn, tăng 15,4% so với cùng kỳ năm 2018.
Tháng 4/2019, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn của Việt Nam sang Hàn Quốc tăng 2.272,6% về lượng và tăng 2.374,4% về trị giá so với tháng 4/2018, đạt 12,91 nghìn tấn, trị giá 3,93 triệu USD; giá xuất khẩu bình quân đạt 304,82 USD/ tấn, tăng 4,3% so với cùng kỳ năm 2018. Lũy kế 4 tháng đầu năm 2019, xuất khẩu sắn và các sản phẩm từ sắn sang Hàn Quốc đạt 40,73 nghìn tấn, trị giá 11,78 triệu USD, tăng 80,5% về lượng và tăng 100,1% về trị giá so với cùng kỳ năm 2018; giá xuất khẩu bình quân ở mức 289,4 USD/tấn, tăng 10,9% so với cùng kỳ năm 2018.